headertvtc new


   Hôm nay Chủ nhật, 05/05/2024 - Ngày 27 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Lời phi lộ của Niệm Phật Thập Yếu

 niemphat2HT Thích Thiền Tâm

Bản thảo cuốn này vừa viết xong, vài ba Đại đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:

Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền tông, dường như có ý bài xích Tịnh độ. Chẳng hạn như trong cuốn Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, có câu niệm Phật tụng kinh đều là vọng tưởng, còn trong đây lại bảo: “Môn Tịnh độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền Giáo Luật Mật. Xem ra dường như cho Tịnh độ là độc thắng, việc ấy thế nào?

Đáp: Không phải thế đâu. Mỗi môn đều có tôn chỉ riêng. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu thuyết giáo tôn chỉ đều đi về những tôn chỉ ấy.

Như bên Thiền lấy “Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật” làm tông chỉ.

Tịnh độ môn lấy “Một đời vãng sinh được bất thối chuyển” làm tông.

Hoa Nghiêm thì lấy “Lìa thế gian nhập pháp giới’ làm tông.

Thiên Thai giáo lấy “Khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật” làm tông.

Tam luận thì lấy “lìa hai bên vào Trung đạo” làm tông.

Pháp tướng môn lấy “Nhiếp muôn pháp về Chơn duy thức” làm tông.

Mật giáo lấy “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông.

Luật môn lấy “Nhiếp thân khẩu ý vào Thi la tánh” làm tông.

Cho nên lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh độ hay bác tụng kinh niệm Phật, mà chính là há ự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém và sai lầm, vì sao từ đức Thế Tôn đến chư vị Bồ-tát cũng như chư vị Tổ sư đều ngợi khen và khuyên dạy tụng kinh niệm Phật.

Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A-di-dà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Đại sư Phổ Am cũng nhân tụng kinh Hoa Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo bên Tịnh độ cũng thế, không phải bác phá Thiền tông, chỉ nói lên chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để học giả suy xét tìm hiểu sâu rộng thêm, rồi tùy thích tùy cơ mà chọn đường thú nhập.

Lại, mỗi môn tuy Tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật tánh. Như một độ thành lớn có tám ngõ đi vào mà nẻo nào cũng tập trung vào đô thị ấy.

Các Tông đại khái chia ra làm hai là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả. Sự tức lý. Lý tức sự. Tánh tức tướng. Tướng tức tánh. Nói cách khác: Sắc tức không. Không tức sắc. Không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một đại sư tham thiền ngộ đạo nhưng lại mật tu về Tịnh độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng rồi niệm Phật sắc vãng sinh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?” Đại sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có sao?”. Thiền giả nghe xong chợt tỉnh. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật là tương thành cho nhau vậy.

Đến như nói: “Tịnh độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền Giáo Mật Luật” chính là lời khai thị của các bậc cổ đức như Liên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật. Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xướng minh về lý mầu của pháp môn Tịnh độ. Đại sư Triệt Ngộ trong tập ngữ lục đã bảo: “Một câu A-di-đà tâm yếu của Phật ta, dọc quán suốt năm thời, ngang gồm thâu tám giáo”. Đại sư Kiên Mật sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu cũng bảo: “Đời nay tham thiền chẳng nên không kiêm Tịnh độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển. Há chẳng kinh sợ chạnh lòng. Một câu A-di-đà nếu không phải là bậc thượng căn đại triệt đại ngộ tất không thể hoàn toàn đề khởi, nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu ”. Thế nên thuốc không quí tiện, lành bệnh là thuốc hay. Pháp không có thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh độ và Thiền tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém, nhưng luận về căn cơ thì Thiên tông, duy chỉ bậc thượng căn mới được lợi ích. Còn môn Tịnh độ thì đồng nhiếp ba căn. Hạng nào nếu tu cũng dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời Mạt pháp này, người trung hạ căn thì nhiều, bậc thượng căn thì ít. Nếu muốn đi đến thánh quả chắc chắn, tất phải chú tâm đến pháp môn Tịnh độ. Đây là do lòng đại bi của Phật tổ, vì quán thấy rõ thời cơ, muốn chúng sinh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thực.

Tuy nhiên như trong kinh nói: “Chúng sinh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai khác không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được”. Vì vậy Tịnh độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với tất cả sở thích của mọi người, nên cần có Thiền tông và các môn khác để chúng sinh đều được lợi ích và Phật pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho nên dù đã tùy căn cơ và sở thích của mình mà chọn Tịnh độ, thâm ý của bút giả cũng mong Thiền tông và các môn khác được lan truyền rộng rãi trên đất nước này. Và các môn khác. nếu đem lại một chút lợi ích nhỏ nhen nào cho chúng sinh, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỉ.

Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền tông và Tịnh độ nói riêng đồng cùng đi về chân tánh. Tuy hai mà một. Tuy hai mà không hai. Đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau. Cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam cho đến cả thế giới.

Mấy vị đại đức sau khi nghe xong, đều tỏ ý tán dồng.

Nhân tiện Bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhân để kết luận cũng như chứng tỏ người xưa cũng đồng quan điểm ấy.

                Tức tâm là độ ký không ngoa
                Tịnh khác thiền đâu vẫn một nhà
                Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu
                Không kiêm vô ngại cõi hằng sa
                Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
                Nguyệt Phật bao la đức hải hà
                Ngoảnh lại đường tu ai sớm tỉnh

                Nỗi thương ác đạo mãi vào ra

 

 

 

[ Quay lại ]