headertvtc new


   Hôm nay Thứ bảy, 30/03/2024 - Ngày 21 Tháng 2 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

I/ DẪN NHẬP

Lâu nay đã có nhiều vị nghiên cứu về Phật Hoàng – Trần Nhân Tông và đã mở ra nhiều điều lý thú, làm sáng tỏ nhiều điều không ngờ. Tuy nhiên, đào sâu về tư tưởng Thiền của Ngài thì cũng còn hạn chế. Song đã gọi là Phật Hoàng, là Đệ nhất Tổ Thiền phái Trúc Lâm thì tư tưởng Thiền của Ngài là điểm trọng yếu, là mạch sống của Ngài, là chỗ lưu truyền lâu dài về sau, cần được soi sáng rõ ràng. Nhưng điều này đúng thực phải người có thực hành, có sống được, có thể nghiệm trong đó mới cảm sâu, nhận sâu, như phải thực sự ăn thì mới cảm nhận thực tế món ăn đó, biết kỹ mùi vị thực của món ăn hơn là chỉ nghiên cứu qua trung gian. Cho nên, hôm nay chúng tôi với phần chuyên môn của mình, xin được đóng góp một phần về tư tưởng Thiền của Ngài, nhằm góp thêm cho cái nhìn về Ngài được toàn diện hơn.

II/ TINH THẦN PHẢN QUAN TỰ KỶ, ẢNH HƯỞNG TỪ THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG

Khi còn là thái tử, Ngài đã được vua Trần Thánh Tông gửi đến học với Thượng sĩ Tuệ Trung, nên được thấm sâu tư tưởng Thiền của Thượng sĩ. Ngài thuật lại: từng hỏi Thượng sĩ: "Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?" Thượng sĩ đáp:

khác mà được". Ngài tiếp nhận sâu yếu chỉ đó! Cho đến sau này xuất gia tu hành, khai đường thuyết pháp, đều không đi lệch ra ngoài yếu chỉ đó. Bởi đó cũng chính là căn bản giáo lý một đời của Đức Phật, là ý chỉ của Thiền tông. Phật ra đời nói pháp giáo hóa chúng sanh có đến tám mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng cốt yếu không ngoài đánh thức cho người soi sáng lại chính mình, rõ lẽ thật nơi chính mình đã tự mê. Các Thiền sư ra đời cũng thế, đều nhắm đến đánh thức cho người thức tỉnh trở lại việc lớn nơi chính mình, thôi chạy tìm kiếm bên ngoài. Nhà thiền có câu: "Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà" là của báu trong nhà phải tự trong đó mà lấy ra dùng, còn từ cửa vào là thuộc về khách, là của người khác.

Có vị tăng hỏi thiền sư Trí Cự hiệu Khương Tuệ ở Tào Sơn, Phủ Châu:

- Người xưa nêu bày người bên kia, học nhơn làm sao thể nhận?

Sư đáp:

- Lùi bước về chính mình, muôn người không mất một.

Nêu bày người bên kia, tức chỉ cho "lẽ thật xưa nay", là chân lý tuyệt đối mà người người đang mê, nhưng mỗi người đang sống trong tương đối thì làm sao đây?

Sư đáp rõ, chỉ cần lui bước về chính mình, đó là yếu chỉ bậc nhất, khéo được như thế thì muôn người không mất một, là quyết định thành tựu kết quả.

Chính thấm nhuần tư tưởng đó, trong buổi giảng tại viện Kỳ Lân ngày mùng 09 tháng giêng năm Mậu Ngọ(1306), Ngài đã nói: "Ngày tháng dễ trôi qua, mạng người không chờ đợi, sao cam ăn cháo, ăn cơm mà chẳng rõ việc bát, việc muỗng (thìa)"!

Đó là Ngài muốn đánh thức cho người học phải soi sáng lại việc lớn nơi chính mình, việc mình đang sống hàng ngày mà tự mê. Ăn cháo, ăn cơm mà cứ lo nhớ theo cháo, cơm, ngon dỡ..., quên mất lẽ thật đang hằng hữu, cái gì đang cầm bát, cầm muỗng, cầm thìa đó? Cần soi sáng lại chỗ này, để sáng tỏ việc lớn nơi chính mình, đó là tông chỉ Thiền mà Ngài muốn khai thị.

III/ LẤY TÂM LÀM GỐC

Qua bài Phú Cư Trần Lạc Đạo, đây là bài phú biểu lộ tư tưởng Thiền của Ngài rất rõ, bằng chữ Nôm, là ngôn ngữ bình thường dùng hằng ngày. Trong đó Ngài bảo: "Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác". Được lòng rồi, tức nhận rõ được bản tâm mình, là thành tựu công phu, không còn pháp nào khác nữa. Vì bao nhiêu pháp môn cũng không ngoài làm sáng tỏ bản tâm là chủ yếu nhưng cách dùng có sai biệt tùy người.

Trong bài phú, Ngài cũng có câu:
                "Tịnh độ là lòng trong sạch,
                                chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương.
                   Di Đà là tánh sáng soi,
                                mựa phải nhọc tìm về Cực lạc."

Đó là Ngài muốn đánh thức người xoay trở lại tự tâm, tự tánh để sáng tỏ tự tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà, cũng là lấy Tâm làm Gốc.

Trong lời vấn đáp ở buổi khai đường tại chùa Sùng Nghiêm, núi Chí Linh, có vị tăng hỏi:

- Đại tôn đức tu hành khổ nhọc, đã trải qua nhiều năm, đối với sáu thông của Phật, Ngài đã được mấy thông?

Ngài đáp:

- Cũng được sáu thông.

- Năm thông kia xin gác lại, thế nào là tha tâm thông?

- Đầy cả các cõi nước, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy.

Tức dẫn trong kinh Kim Cang, Phật nói tất cả chúng sanh ở trong hằng sa cõi nước có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết hết, thấy hết, tức đều không phải bản tâm.

Đây là Sơ Tổ Trúc Lâm nhấn mạnh cần sáng tỏ trở lại bản tâm là chính, tha tâm thông không giải thích theo thần thông bên ngoài. Đó là đánh thức cho người sống trở về Gốc, là căn bản của Thiền tông.

IV/ KIẾN SẮC MINH TÂM

Trong bài Phú Cư Trần Lạc Đạo, Ngài có biểu lộ:

                "Chơi nước biếc, ẩn non xanh,
                                nhân gian có nhiều người thích ý.
                  Biết đào hồng, hay liễu lục,
                                thiên hạ năng mấy chủ tri âm."

Thấy đào hồng biết đào hồng, thấy liễu lục biết liễu lục, nhưng thiên hạ có mấy người sáng tỏ được "Tâm thiền" ngay lúc ấy, hay chỉ có nhớ đào hồng, liễu lục thôi ? Đó là ngay trong trần cảnh mà vượt qua trần cảnh, không bị trần cảnh mê hoặc. Tâm thiền của Ngài sáng ngời ngay trong cuộc sống hiện tại, rất thực tế, không xa vời ! Người có chứng nghiệm qua liền tự cảm thông ngay.

Rồi bài thơ Xuân Hiểu, Ngài đã thổ lộ:

                       Thụy khởi khải song phi
                        Bất tri xuân dĩ qui
                        Nhất song bạch hồ điệp
                        Phách phách sấn hoa phi.
                Dịch:
                        Ngủ dậy mở cửa sổ.
                        Ngờ đâu xuân đã về!
                        Một đôi bươm bướm trắng
                        Nhịp cánh nhắm hoa bay.

Ngủ dậy, tỉnh giấc mê, mở cửa sổ nào? là cửa con mắt này đây!

Ngờ đâu xuân đã về! xuân gì? tức là xuân giác ngộ, ánh sáng giác ngộ đã bừng dậy.

Thì, kìa! ngay trước mắt, một đôi bươm bướm trắng nhịp cánh nhẹ nhàng nhắm đến cánh hoa bay tới.

Là gợi nhắc đến con mắt ai kia, là tâm Thiền biểu lộ ra đó! nhưng nếu nhìn theo tâm tình thế gian, đây chỉ là một bài thơ tả cảnh. Cho nên, đọc thơ của Thiền sư, phải đọc bằng con mắt Thiền sư mới cảm thông ý thơ sâu xa trong đó.

V/ DỨT TÂM SUY NGHĨ ĐỐI ĐÃI.
Có vị tăng hỏi Điều Ngự:
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
Ngài đáp:
               - Chén mạ vàng đựng phân sư tử
                Người đen đúa vác bó hương thơm.
        Âm:
                (Kim tạc lạc trung sư tử thỉ
                Thiết côn lôn thượng chá cô ban).

Pháp thân thanh tịnh là chỉ cho tâm thể vô tướng, lìa mọi thứ đối đãi, là nguồn gốc chân thật của tất cả chúng sanh. Muốn nhận được pháp thân phải lìa niệm phân biệt đối đãi.

Trong câu đáp của Điều Ngự: chén mạ vàng là quí, là sạch; phân sư tử là tiện, là nhơ. Hương thơm là sạch, là tốt; người đen đúa là nhơ, là xấu. Ngài muốn chỉ thẳng tâm thể luôn hiện tiền, dứt bặt niệm phân biệt nhơ sạch, tốt xấu, chính đó là pháp thân thanh tịnh, không phải giải thích dài dòng. Bởi Tâm thiền của Thiền sư là ở trước khi động niệm, trước khi có ngôn ngữ, do đó nó vượt lên trên tâm suy nghĩ, phân biệt đối đãi, là thuộc tâm sanh diệt.

Có vị tăng khác hỏi Ngài:

- Câu có câu không như dây bìm nương theo cây, khi ấy thế nào?

Ngài bèn nói bài kệ, lược dẫn:

                    Câu có câu không
                    Bìm khô cây ngã
                    Mấy kẻ nạp tăng
                    U đầu sứt trán.
                    ***
                    Câu có câu không
                    Tự xưa tự nay
                    Chấp tay quên trăng
                    Đất bằng chết chìm
        Âm:
                    (Hữu cú vô cú
                    Đằng khô thọ đảo.
                    Kỷ cá nạp tăng,
                    Chàng đầu khái não.
                    ***
                    Hữu cú vô cú,
                    Tự cổ tự kim
                    Chấp chỉ vong nguyệt
                    Bình địa lục trầm).

Đây là gốc từ câu chuyện Sơ Sơn đến hỏi Qui Sơn – Đại An:

- Được nghe Thầy nói "Câu có câu không như bìm leo cây", chợt khi cây ngã, bìm khô thế nào?

Đại An cười to ha hả. Sơ Sơn thưa:

- Con từ bốn ngàn dặm mang khăn gói đến đây, sao Hòa Thượng lại đùa như thế?

Đại An bảo:

- Thị giả! Hãy lấy tiền trả tiền giày cỏ cho Thượng tọa này!

Sư lại dặn:

- Về sau có con rồng một mắt sẽ vì ông nói phá.

Sau này, Sơ Sơn đến chỗ Minh Chiêu thuật lại việc trên. Minh Chiêu bảo:

- Qui Sơn đáng gọi là đầu chánh đuôi chánh, chỉ là chẳng gặp tri âm.

Sơ Sơn hỏi:

- Cây ngã bìm khô, câu về đâu?

Minh Chiêu đáp:

- Nụ cười Qui Sơn càng thêm tươi.

Sơ Sơn tỉnh ngộ, nói:

- Té ra trong nụ cười Qui Sơn có đao.

Minh Chiêu vốn chột một mắt, đúng như lời dự ký của Đại An ở trước.

Ông tăng dẫn lại ý đó để hỏi Điều Ngự. Điều Ngự chỉ ra, câu có câu không là lời nói hai bên, giống như dây sắn, dây bìm nương nơi cây mà leo lên cao, tự nó không có chỗ tựa. Chợt khi cây ngã, đổ xuống thì dây bìm hết chỗ tựa, bị héo khô theo, lúc đó mình nương vào đâu để hiểu? Biết bao nhiêu kẻ nạp tăng không vượt qua được cửa đối đãi này, bị u đầu sứt trán vì nó.Vừa rơi vào có không là trái xa tâm Thiền, là rơi bên ngoài cửa Thiền.

VI/ TÂM TRUYỀN TÂM – ĐẠT Ý QUÊN LỜI.

Buổi thượng đường ở chùa Sùng Nghiêm, mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân xong bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy, v.v... rồi Ngài nói:

- Đức Phật Thích Ca Văn vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa này, biết nói chuyện gì đây?

Thượng đường là sắp nói pháp, nhưng Ngài chặn đầu trước, khiến người vượt qua ngôn ngữ nói năng. Bởi chân lý hiện thực vốn không ở trên ngôn ngữ văn tự chết đó, mà ở ngay trong tâm người. Đóng khung trong ngôn ngữ là thành chân lý chết, thành Thiền chết.

Đây là Ngài muốn đem tâm mình truyền thẳng vào tâm người, khiến người thầm cảm thông nhau trực tiếp vượt qua ngôn ngữ.

Thiền sư Pháp Loa hỏi:

- Nói huyền nói diệu, luận cổ bàn kim đều thuộc thứ nói đùa, một câu không kẹt trong ngôn ngữ, làm sao nói được?

Ngài đáp:

            - Gió đông dìu dịu ngàn hoa nở
               Lách cách vành xe một tiếng vang.

Pháp Loa toan mở miệng nói, Ngài liền bảo:

            - Chim hót máu tuôn vẫn vô dụng
              Non tây như trước phủ non chiều.

Hỏi một câu không kẹt trong ngôn ngữ thì nói thế nào? Ngài trả lời khéo, nhằm đánh thức cái đang thấy, nghe hiện hữu đó, đâu thuộc trong ngôn ngữ luận bàn.

Thiền Sư Pháp Loa định nói tiếp, Ngài liền chặn ngay. Đã nói hết tình rồi, như chim hót đến máu tuôn ra, ông còn chưa nhận, lại muốn nói gì nữa?

Thiền sư Pháp Loa hỏi thêm:

- Khi muôn dặm mây tạnh thì như thế nào?

Ngài đáp:

- Mưa tầm tã.

Hỏi:

- Khi muôn dặm mây che kín thì như thế nào?

Đáp:

- Trăng vằng vặc.

Đây làThiền ngữ, ý vốn ở ngoài lời. Nói mây tạnh không phải hiểu theo mây tạnh; nói mây che kín không thể hiểu theo mây che kín. Trong đây ngầm chỉ mây mê mờ che bầu trời tâm.

Vậy, đã là mây tạnh, tức bầu trời tâm trong sáng không có mây mờ, thì tại sao còn khởi niệm hỏi? Khởi niệm tức tâm động, là mây che, là mưa tầm tã rồi.
Còn muôn dặm mây che kín bầu trời tâm, thì còn cái gì biết hỏi đó? Còn biết hỏi tức tâm đã lộ ra rồi, đâu thể che mất được!

Đó chính là cách tâm truyền tâm của Thiền tông, khiến người học thấu qua ngôn ngữ, đạt ý quên lời, không kẹt trên chữ nghĩa.

Tuy nhiên chỗ này phải người thực tu, thực ngộ mới tự cảm thông nhau, trái lại phân tích trên chữ nghĩa thì khó thấu được, do đó có khi hiểu lầm người xưa thành xuyên tạc.

VII/ TÓM KẾT

Trên đây là tạm gợi ý về tư tưởng Thiền của Phật Hoàng – Trần Nhân Tông, vị Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm. Tư tưởng Thiền của Ngài rõ ràng là Thiền Tông hay Tổ Sư Thiền – tức Thiền "Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật", lấy tâm làm gốc, thành Phật ngay trong tự tâm, nên ngộ tâm là điều thiết yếu.

Người tu Thiền này mà chưa tỏ ngộ được tâm, là còn ở ngoài cửa Tổ. Song tâm đó là tâm gì? Chính là bản tâm xưa nay, là nguồn tâm chân thật trước khi niệm khởi, trước khi chia thành nhị nguyên, không thể lầm lộn với tâm sanh diệt đối đãi. Do đó, muốn thấy được cốt tủy tư tưởng Thiền của Ngài, cần tiến thêm một bước, vượt lên tâm hiểu biết bằng tri thức tích lũy có giới hạn này, hay nương tri thức này mà tiến đến chỗ phi tri thức. Và đó mới chính là ý nghĩa đích thực đúng với tên Phật Hoàng, tên Tổ của một Thiền phái.

Phật Hoàng là vua Phật, bậc vua giác ngộ, vậy vua giác ngộ đó ở đâu? Không thể là ở trong số chữ nghĩa nghiên cứu trên giấy mực, đó là chữ nghĩa chết. Và Tổ của Thiền, thì gì là Tổ? Tổ đó không thể là Tổ của những định nghĩa trong tri thức hiểu biết bằng suy luận, mà phải là trực giác trên bản tâm xưa nay. Đây mới đúng là giá trị bất diệt trong con người thực Phật Hoàng. Thiền phái Trúc Lâm ra đời là ra đời từ trong đó! Còn có người tỏ ngộ được lẽ thật này là Thiền phái còn bền vững lâu dài ở thế gian, chính đó là mạch sống Thiền tông Việt Nam còn chảy mãi không dứt.

ANAN Đà



A NAN ĐÀ

ĐA VĂN ĐỆ NHẤT

1- NHÂN DUYÊN XUẤT GIA

Đang lúc tôi cầm viết để tả lại sự tích một đời của tôn giả A-nan-đà, bỗng nhiên tôi nhớ lại lời khen tặng của Bồ-tát Văn-thù về A-nan:

                            Tướng như thu mãn nguyệt
                            Nhãn tợ thanh liên hoa
                            Phật pháp như đại hải
                            Lưu nhập A-nan tâm.

            Dịch:
                            Tướng như trăng thu tròn
                            Mắt biếc tợ sen xanh
                            Phật pháp rộng như bể
                            Đều rót vào tâm A-nan.

Trong số các vị đệ tử của Phật, người có tướng mạo trang nghiêm, trí nhớ thật mạnh mẽ, phải kể đến tôn giả A-nan.

Tôn giả có một cuộc đời thật phi thường, đối với giáo đoàn đương thời và cho đến Phật pháp hôm nay đều có ảnh hưởng rất sâu xa.

A-nan-đà cũng như La-hầu-la, đều là đồng chơn vào đạo. Khi A-nan gia nhập Tăng đoàn, không biết vào khoảng mấy tuổi, điều này khó khảo chứng. Nhưng căn cứ vào truyền thuyết, trong nhóm các vương tử A-na-luật, Bạt-đề… đồng xuất gia thì A-nan là người nhỏ tuổi nhất tham dự trong ấy.

Phụ thân của A-nan là Bạch Phạn Vương, còn Đề-bà-đạt-đa là anh ruột. Sở dĩ, A-nan gia nhập Tăng đoàn trong tuổi đồng niên, vì đó là điều trông mong của đức Phật. Khi đức Phật trở về quê thuyết pháp, Bạch Phạn Vương sợ A-nan chịu ảnh hưởng về tư tưởng xuất thế của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không lâu, nhà vua bèn đưa A-nan sang nước Tỳ-xá-ly, không để có cơ hội thường tiếp xúc với Phật. Khi Phật đi sang nước Tỳ-xá-ly, Bạch Phạn Vương lại đưa A-nan trở về thành Ca-tỳ-la.

Nói đến chỗ này thiệt là nhân duyên bất khả tư nghì. Trong số các vương tử, đức Phật hy vọng nhất là A-nan theo Ngài xuất gia. Buổi tương kiến đầu tiên, vừa thấy A-nan, đức Phật đã nghĩ thầm “Nếu như A-nan xuất gia, thì tương lai có thể thiệu long Phật chủng, khiến Phật pháp lưu truyền vĩnh viễn ở hậu thế”. Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là chọn người có thể nối tiếp sự nghiệp cho mình, xây dựng cho người ấy, đề cử người ấy thêm lên. Phật thành đạo không bao lâu, Ngài bèn chọn A-nan, thật là Ngài đã nhìn xa thấy rộng.

Phật biết A-nan đã trở về thành Ca-tỳ-la, bèn lập tức quay về và đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng của A-nan. A-nan mở cửa ngó qua thấy đức Phật bèn cung kính đảnh lễ, và lấy quạt quạt cho đức Phật. Qua thái độ này chúng ta có thể thấy rằng trong tâm hồn thơ bé của A-nan đã sớm khởi lòng tin tưởng cung kính đối với đức Phật.

Do đó, khi gặp cơ hội, A-nan bèn cùng các vương tử Bạt-đề… thế phát xuất gia, gia nhập Tăng đoàn.

2- GIÚP CHO NỮ GIỚI XUẤT GIA

A-nan dần dần lớn lên trong Tăng đoàn. Với thiên tánh ôn hòa, từ bi, dung mạo truyền cảm, tôn giả là nhân vật được phái nữ bên trong và bên ngoài Tăng đoàn tôn kính. Đối với các Tỳ-kheo ni, Tôn giả hết lòng lo lắng, với các tín nữ tại gia, Tôn giả thường ban cho họ niềm an ổn. Ở một chốn lạnh lùng nghiêm túc, chỉ dùng toàn lý trí như Tăng đoàn thì A-nan với dung mạo dễ mến và tình cảm phong phú, như vầng thái dương một sớm mùa đông làm ấm áp tâm tình của các cô.

Nếu như không có A-nan, ngày nay trong Tăng đoàn cho phép hay không cho phép người nữ xuất gia làm Tỳ-kheo ni? Điều ấy thật khó biết.

Nói về duyên khởi của nữ giới được hứa khả xuất gia theo chánh pháp, hoàn toàn do công lao của tôn giả A-nan-đà.

Số là hoàng hậu Kiều-đàm-di, em gái của Thánh mẫu Ma-da phu nhân, là dưỡng mẫu của Phật. Bà thấy sau khi Phật thành đạo trong vòng năm năm, trong dòng họ Thích có các vương tử Bạt-đề, A-na-luật… đầu tiên quy y Phật và xuất gia, vương tôn La-hầu-la cũng đã là Sa-di, vua Tịnh Phạn đã băng hà. Bà nghĩ trước, nghĩ sau, muôn phần cảm khái. Do thiện căn bắt đầu nẩy mầm, bà bèn đến xin đức Phật cho phép được ở trong Tăng đoàn xuất gia như pháp.

Bà yêu cầu lần thứ nhất, Phật liền từ chối. Bà lại yêu cầu đôi ba phen, cũng bị Phật không chấp thuận. Sau Phật sợ bị Di mẫu kèo nài phiền phức, bèn dẫn đồ chúng đi sang nước Tỳ-xá-ly, ngụ tại tinh xá Na-ma-đề-ni.

Di mẫu vẫn không nản lòng, bà tập hợïp năm trăm người nữ dòng họ Thích cũng đồng ý nguyện, cắt bỏ tóc tai, đi chân đất rời thành Ca-tỳ-la đuổi theo đến thành Tỳ-xá-ly. Ca-tỳ-la cách Tỳ-xá-ly khoảng hai ngàn dặm đường. Các vị phu nhân, tiểu thư này từ trước đến giờ chỉ quen ở thâm cung, lên xe xuống lầu, không hề động đến móng tay. Hôm nay, lại biến thành các vị ni cô, ba y một bát, đầu trần chân đất, lội bộ suốt hai mươi ngày đường. Dân chúng hai bên đường phần cảm động, phần hiếu kỳ, họ rủ nhau đi xem chật ních, có người còn dự bị thức ăn đem cho đoàn người cầu pháp. Và rốt cuộc các bà, các cô cũng đến được tinh xá Na-ma-đề-ni.

Lúc ấy trời đã về chiều. Vì không quen đi đường ai nấy đều thở không ra hơi, hình dung tiều tụy, mệt nhọc, cả đoàn cứ lẩn quẩn trước cửa tinh xá, chẳng dám bước vào. Thời may, A-nan trong tinh xá đi ra, thấy Di mẫu và năm trăm người nữ dòng họ Thích, đều mặc y phục Tỳ-kheo ni, bụi bặm lấm lem, nước mắt đầm đìa,

A-nan vốn giàu tình cảm, đã ngạc nhiên kêu lên:

- Các vị làm gì ở đây?

Di mẫu đáp:

- Chúng tôi vì muốn cầu đạo, cắt ái từ thân, bỏ nhà đến đây cầu xin được thế độ. Nếu như lần này Phật không cho phép, chúng tôi liều chết tại đây chớ không về.

A-nan nghe Di mẫu nói, cảm động rơi nước mắt, bèn an ủi:

- Các vị hãy yên tâm! Tôi thấy tình cảnh các vị như thế này trong lòng đã hết sức áy náy. Các vị hãy chờ ở đây một lát, tôi sẽ vào xin đức Thế Tôn giùm cho.
Nhà thầy A-nan trẻ tuổi lại đa cảm, vội trở vào tinh xá, đem hết nguyện vọng của Di mẫu và bọn người nữ thưa lên đức Phật, khẩn cầu Phật thương xót họ, cho phép được xuất gia.

Phật từ chối:

- Ta cũng thương cho bọn họ đấy, nhưng vì sự truyền thừa chánh pháp không thể chấp thuận được. Ông ra bảo họ rằng ta không bằng lòng.

A-nan không chịu đi ra, còn nài nỉ với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu là ai khác thì con có thể từ chối được, nhưng đằng này là Di mẫu, nếu nói thẳng chắc là sẽ có chuyện không hay. Họ đã nói chẳng thà chết chứ không chịu về.

- Này A-nan! Hứa khả cho người nữ xuất gia trong Tăng đoàn thiệt chẳng tiện chút nào!

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Phật pháp lại phân biệt nam nữ hay sao? – A-nan cố xin giùm cho phái nữ, nên ở trước Phật ra sức vận động.

- Này A-nan! Pháp của ta dù ở cõi trời hay cõi người, đều một vị, ta không lựa riêng nam hay nữ, tất cả đều là chúng sanh đáng thương, ta đều đối xử bình đẳng. Người nữ có thể tin theo pháp của ta như bên nam giới, tu hành như nhau, chứng quả như nhau, chỉ không nhất định họ phải xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế, không phải vấn đề nam nữ bình đẳng. Người nữ xuất gia như đám ruộng tốt sanh sản nhiều cỏ dại, không gặt hái được bao nhiêu.

Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên lời nói của Ngài hàm chứa ý nghĩa đặc biệt. Đương nhiên nếu chiếu theo tình người thì nên cho phép nữ giới xuất gia, nhưng nếu đứng về mặt pháp lý, thì nam nữ cùng tu học trong một trụ xứ là một việc rất khó giải quyết. Trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau, Phật không cho phép người nữ xuất gia chính vì điểm đó. Người nữ rất nặng tình cảm, họ có thể vì tình mà bỏ đạo, thôi tu. Đó là điều không thể chấp thuận. Hoặc có thể vì nữ nhân tâm ngã mạn, ham danh nặng hơn nam giới, nên Ngài không hứa khả cho xuất gia là muốn dạy cho họ một bài học.

Thiệt là Phật từ chối cứng rắn đến mấy, A-nan bản tính vốn ôn hòa chưa từng cãi đức Phật một câu, mà phen này cũng rơi lệ, sụt sùi đảnh lễ Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài nhẫn tâm để họ chết, mà không đưa tay từ bi cứu độ?

Phật thấy rằng trên đời này, pháp lý và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời này thanh tịnh, thường trụ bất biến mãi mãi được. Ngài trầm mặc giây lâu, rồi mới bất đắc dĩ bảo A-nan:

- Chẳng còn cách nào khác hơn. Thôi! Ông ra kêu họ vào đây.

Từ mệnh Phật vừa ban ra A-nan vui mừng vội vàng chạy ra báo tin vui, Di mẫu và năm trăm người nữ nghe tin cũng mừng rỡ đến rớt nước mắt.

Họ theo nhau vào diện kiến Phật. Ngài thản nhiên như không quan tâm đến, ôn hòa cho phép họ xuất gia làm Tỳ-kheo ni, nhưng yêu cầu phải giữ gìn Bát kỉnh pháp.

Với sự hỗ trợ của A-nan, rốt cuộc giáo đoàn Ni bộ được thành lập. Di mẫu rất cảm kích đối với ơn của A-nan, bà thành khẩn nói lên vui mừng của mình:

- A-nan! Chúng tôi vâng giữ Bát kỉnh pháp, cũng như người đẹp mà được mặc y phục mỹ lệ vậy.

Ngày nay, trong Tăng đoàn cho phép nữ giới xuất gia, đều là nhờ sự ủng hộ đầu tiên của A-nan. Do nhân duyên ấy, phái nữ đối với Tôn giả có duyên đặc biệt, Tôn giả là người rất được họ kính ngưỡng.

3- CÂU CHUYỆN VỀ MA-ĐĂNG-GIÀ

Vẻ đẹp và tuổi trẻ của A-nan đã gây ra nhiều chuyện phiền phức rối ren. Đó là câu chuyện về Ma-đăng-già.

Hôm ấy, sau mùa an cư, A-nan bưng bát đi vào thành Xá-vệ khất thực. Trên đường về đi ngang một giếng nước, có một cô gái dòng Thủ-đà-la đang lui cui xách nước, A-nan thấy khát, bèn đến bên giếng và nói:

- Cô nương! Xin bố thí cho tôi miếng nước.

Cô gái ngẩng đầu lên, thấy một vị Tỳ-kheo trẻ tuổi trang nghiêm và nhận ra đó là A-nan-đà. Cô vội nhìn xuống y phục của mình và thẹn thùng nói nhỏ:

- Thưa Tôn giả! Tôi không tiếc chi với Ngài, nhưng tôi thuộc dòng hạ tiện, làm sao có thể cúng dường cho Ngài?

A-nan an ủi:

- Này cô nương! Tôi đã là Tỳ-kheo không có tâm phân biệt cao thấp sang hèn đâu!

Cô gái bèn vui vẻ đem gàu nước trong trẻo đưa cho A-nan. A-nan uống xong, thốt lời cảm ơn và lặng lẽ tiếp tục đi.

Mối tình đầu chớm nở trong lòng cô thiếu nữ, cô không ngăn nổi tia mắt lưu luyến đưa theo hình ảnh A-nan. Dáng dấp quý phái cao sang của dòng vua ấy, lời lẽ ôn hòa ấy, như một nét mực đậm in trên tâm hồn trong trắng của cô, vĩnh viễn không thể xóa nhòa. Thậm chí cô lại vọng tưởng mơ mộng rằng, giá mà được kết hôn với A-nan thì hạnh phúc biết mấy mà kể.

Cô gái về đến nhà bơ phờ như người mất hồn, không thiết gì đến ăn uống, làm công chuyện qua loa rồi nằm vật trên giường suy tư miên man. Bà mẹ thấy vậy gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu cô không chịu nói, hỏi đôi ba phen, cô mới yêu cầu mẹ mời A-nan về nhà, cô muốn A-nan làm chồng cô. Bà mẹ nghĩ hoài không ra, A-nan đã đi tu làm thầy Tỳ-kheo, mà lại thuộc dòng hoàng tộc làm sao cưới cô được? Nhưng vì lòng thương con gái, dù khó đến đâu cũng phải tìm cách thực hiện. Bà bèn đi thỉnh một đạo bùa chú của ngoại đạo, đợi A-nan đi khất thực ngang nhà, sẽ dùng chú thuật mê hoặc A-nan.

Ma chú linh nghiệm hay không, điều đó chẳng rõ, nhưng A-nan cũng còn nhớ cô gái bên giếng nước. Khi A-nan đi ngang qua nhà, nàng ra đứng trước cửa, nhìn A-nan cười chúm chím và đưa tay vẫy. A-nan mê mẫn bước vào trong nhà. Cô gái vừa mừng vừa thẹn lính quýnh cả lên. Ngay lúc ấy A-nan sực nhớ ra mình là một vị Tỳ-kheo, A-nan liên tưởng đến đức Phật. Đồng thời đức Phật dùng oai thần gia hộ cho Tôn giả Trí tuệ sáng suốt trở lại, giống như Ngài nổi một luồng gió đưa A-nan về tinh xá Kỳ Viên.

Ngày hôm sau, A-nan bình tĩnh lại, cũng đi vào thành khất thực. Lạ thay cũng gặp cô gái ấy, nàng mặc áo mới, đeo tràng hoa, đứng bên đường như chờ đợi A-nan. Cô vừa thấy Tôn giả liền lẽo đẽo theo sau một bên, như con thiêu thân bu theo ánh đèn không chịu rời một bước. Trước tình trạng này, A-nan chẳng biết tính sao, phải quay trở về tinh xá bạch với đức Phật. Đức Thế Tôn bảo A-nan gọi cô ta đến, Ngài sẽ đích thân nói chuyện với cô. A-nan vừa ra đến cổng, thấy cô nàng còn đứng đó, Tôn giả bèn hỏi:

- Tại sao cô cứ theo tôi mãi như vậy?

- Thầy thiệt là ngốc mới đi hỏi tôi một câu lẩn thẩn đến thế.

- Đức Thế Tôn muốn gặp cô, mời cô theo tôi về tinh xá.

Nghe nói đến đức Phật, cô gái đã lo sợ một phen, nhưng vì muốn đoạt được A-nan, cô lấy hết can đảm đến gặp Ngài. Phật thấy cô bèn nói:

- A-nan là người tu, nếu muốn làm vợ A-nan, điều kiện cần yếu trước tiên là phải xuất gia tu đạo một năm, nàng có chịu không?

- Phật-đà! Con bằng lòng.

Cô gái không ngờ đức Phật từ bi quá đỗi, đưa điều kiện hết sức dễ dàng để tác thành cho cô, nên cô chấp nhận một cách mau lẹ.

- Theo phép xuất gia của ta, phải có cha mẹ bằng lòng, nàng có thể mời cha mẹ đến chứng minh được không?

Đức Phật không làm khó dễ ai, điều kiện của Ngài cũng dễ thôi. Cô gái liền về nhà dắt mẹ đến. Bà mẹ cô cũng vui mừng đối trước Phật, để cô gái xuất gia tu hành rồi sau sẽ kết hôn với A-nan.

Cô nàng vì muốn làm vợ A-nan, rất cao hứng mà cạo tóc, mặc áo nhuộm, làm Tỳ-kheo ni. Cô đem hết nhiệt tâm nghe Phật thuyết pháp, và cũng rất tinh tấn y theo lời chỉ dạy của Phật tu tập. Ở trong giáo đoàn Tỳ-kheo ni, nàng hòa hợp với các sư tỷ, sư muội sinh hoạt theo Phật pháp.

Biển ái, tình si của cô dần dần lắng dịu. Xuất gia chưa được nửa năm, cô đã thức tỉnh rằng thái độ của mình trước đây thật đáng hổ thẹn.

Đức Phật thường giảng nói ngũ dục là pháp bất tịnh, là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân ngu si tự ném mình vào lửa để bị thiêu rụi, con tằm vô tri làm kén tự trói mình. Nếu như từ bỏ được ngũ dục, nội tâm được thanh tịnh, cuộc sống mới an ổn được.

Giờ đây nàng tự biết mình mê đắm A-nan thật là ý tưởng bất thiện, bất tịnh. Nàng hối hận vô cùng. Một hôm, nàng đến quỳ dưới chân Phật, khóc và sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tỉnh mộng, con không dè lúc trước con ngu si đến mức như vậy. Hôm nay, con chứng được Thánh quả, được xem như đi trước A-nan, con rất cảm kích ân của Thế Tôn. Ngài vì hóa độ bọn chúng sanh ngu muội như con, đã dùng hết phương tiện và nhọc lòng dạy dỗ. Từ nay về sau, con nguyện suốt đời làm Tỳ-kheo ni, theo chân đức Thế Tôn, làm một sứ giả cho chân lý.

Sự giáo hóa khẩn thiết của đức Phật, cuối cùng đã thấm đọng vào tâm hồn mẫn cảm của thiếu nữ, nàng tỉnh ra thấy trời đất thanh lương, thành một bực Tỳ-kheo ni mẫu mực…

Tên nàng đã nổi danh là Ma-đăng-già. Đức Phật giúp cho một cô gái dòng hạ tiện xuất gia, điều ấy đối với giai cấp thâm nghiêm Ấn Độ, khiến cho nhiều người nghe được phê bình, phản đối. Nhưng bậc đại thánh Phật-đà đã nêu lên chủ trương bình đẳng, như trăm sông chảy về biển, bốn chủng tộc xuất gia đều là Thích tử. Nàng Ma-đăng-già vì yêu mến dung mạo của A-nan mà sau cùng chuyển họa thành phước. Giai thoại ấy đã lưu lại trong Tăng đoàn những lời bàn tán đẹp ngàn năm.

4- THUYẾT PHÁP CHO TỲ KHEO NI

Chính vì dung mạo đẹp đẽ và giàu tình cảm, mà không những các cô gái thế tục theo đuổi A-nan, cho đến các Tỳ-kheo ni cũng luyến mộ Tôn giả.

A-nan đối với ni giới thật là tận tình giúp đỡ, thêm vào đó có những nhân duyên đặc biệt, nên nữ giới, ngay cả các Tỳ-kheo ni đối với Tôn giả đặc biệt cung kính. Có lúc A-nan cùng Đại Ca-diếp trên đường hành hóa, ghé ngang một lan-nhã của các Tỳ-kheo ni, các cô đều đồng thỉnh A-nan khai thị trước, rồi sau mới mời đến Đại Ca-diếp. Luận về tuổi tác, hạ lạp, giới hạnh thì Đại Ca-diếp hơn A-nan xa, nhưng các Tỳ-kheo ni không kể đến chuyện ấy.

Cuộc sống của người xuất gia, về mặt tâm lý, như một bãi chiến trường. Lý trí và tình cảm thường giao tranh với nhau bên trong của mỗi nhà tu. Lý trí thắng thì thành Phật đắc Tổ, tình cảm thắng đương nhiên là phàm phu tục tử. Nếu nói rằng yêu cầu mỗi vị xuất gia đều lạnh lùng như cây khô, xác chết, không còn một chút ái tình của người đời thì chắc là khó được.

Ở Kỳ Viên tinh xá, có một vị Tỳ-kheo ni trẻ tuổi, thấy phong tư A-nan thanh nhã độ lượng, cô ôm ấp ngày đêm không thể quên. Nhưng cổ ngữ Trung Hoa có nói "Nam nữ thọ thọ bất thân" huống chi đây là chốn Tăng đoàn nghiêm trang cách biệt? Cô Tỳ-kheo ni ấy tuy thầm thương trộm nhớ A-nan, nhưng không thể đột xuất vào phạm vi giới cấm, trừ những lúc nhìn lén A-nan vài cái, ngoài ra không cách gì khác hơn.

Một hôm, Tỳ-kheo ni ấy mang bệnh. Cô nhờ người thưa với A-nan một lời “Thưa Tôn giả! Hiện giờ con đang bệnh nặng, không còn hy vọng bao nhiêu, xin Tôn giả từ bi đến thăm một phen!”

Lời yêu cầu đáng thương như vậy khiến A-nan động tâm. Sáng hôm sau, tôn giả đắp y mang bát trước khi đi khất thực, thuận tiện ghé thăm. Tỳ-kheo ni bệnh y phục không được chỉnh nằm tại giường, khi thấy A-nan đến gần dùng đôi mắt đa tình nhìn A-nan trân trối. A-nan thấy thái độ lãng mạn của cô, biết được chuyện không tốt liền quay lưng bỏ đi, không hỏi han gì cả. Cô ni nọ thấy A-nan đã đến gần, đột nhiên không nói một lời mà chuyển thân bước ra, nhất định Tôn giả đã bất mãn hành vi của mình. Cô sanh lòng hổ thẹn vội vàng ngồi dậy, đắp y, trải tọa cụ và thỉnh A-nan trở lại, mời ngồi tại tòa. A-nan liền khai thị:

- Này cô! Không nên dùng vật bất tịnh nuôi thân, không nên dùng kiêu mạn nuôi tâm, không nên chứa chấp tư tưởng tham ái, ý niệm dâm dục. Này cô! Khi đau bệnh nên để thân tâm an trụ nơi cảnh giới vô sở cầu thì mới mau lành mạnh.

Tỳ-kheo ni trẻ tuổi lúc này dường như quên thân phận xuất gia của mình, đưa mắt nhìn A-nan một cách tình tứ và nói:

- Chẳng phải tôi không biết đạo lý mà Tôn giả vừa nói. Nhưng đối với tôi, không được ăn ngon hay mặc đẹp, tôi cũng có thể chịu nổi, chỉ có tình cảm của tôi đối với Tôn giả, tôi đã hết sức chế ngự mà không được. Người ta ai cũng muốn được yên thân, ai cũng có một điều mong ước chứ!

- Này cô! Không nên nghĩ như vậy, chúng ta đi xin thức ăn, áo mặc là để giữ gìn thân mạng, giữ thân mạng là để tu đạo, tu đạo mới có thể an tâm. Bỏ quên đạo lý để chạy theo tìm cầu những dục lạc giả dối cho thân mình là một điều lầm lẫn. Người khách buôn thoa dầu vào bánh xe là để cho xe dễ chạy, người bệnh ghẻ xức dầu trên mình không phải để trang điểm, cũng không phải vì dục lạc, chỉ với mục đích trị bệnh mà thôi. Chúng ta dưỡng thân an tâm, cần yếu đoạn trừ ý niệm ái dục, lìa tâm ham vui. Xa rời tâm hữu lậu, cầu đạo chơn thật, đừng để cho các pháp vô thường hư huyễn làm mê hoặc.

Tỳ-kheo ni nghe rồi, cảm động sâu xa liền dứt sạch tâm niệm ái dục, chứng được vô sanh pháp nhẫn.

5- CHIA BÁNH MANG TIẾNG

A-nan vì những chuyện của các cô thường chuốc vào mình những điều phiền phức, bị người ganh ghét, phê bình, đức Thế Tôn cũng thường bận tâm vì Tôn giả.

Nhưng A-nan không giống như Ca-lưu-đà-di. A-nan không theo đuổi các cô, trái lại các cô cứ chạy theo A-nan. A-nan đối với họ bằng một tình cảm thuần khiết, không hề có một niệm ái dục, chúng ta xem lời khai thị của A-nan với Tỳ-kheo ni trên cũng đủ biết.

Dù cho Tôn giả đối với nữ giới chân chính thế mấy mà trong Phật giáo, phàm những việc gì dính dáng đến phái nữ, đều là sự chẳng lấy làm vinh dự lắm. Nam nữ luyến ái nhau, tuy chẳng phải là tội ác lớn nhưng vốn là hành vi bất tịnh.

Một hôm, Phật ngụ tại nước Xá-vệ, có một đàn việt làm rất nhiều bánh in đem cúng dường, Phật dạy A-nan đem bánh phân chia cho các Tỳ-kheo. A-nan chia xong, còn dư bánh khá nhiều, Phật lại bảo đem chia cho những người nghèo trong vùng.

A-nan vâng lời, nhóm họp hết những người bần khổ đến lãnh bánh. Có đến cả ngàn người kéo đến, A-nan tính số người với số bánh, thì vừa đủ một người một cái.

Khi A-nan đang chia bánh, trong số người lãnh phần có một thiếu nữ xinh đẹp thuộc nhóm ngoại đạo lõa hình. Khi chia đến cô, thiệt chẳng may, phần bánh lại có hai cái dính chung gỡ không ra. A-nan không biết tính sao, bèn đưa hết cho cô ấy. Đó chỉ là một sự vô tâm, nhưng mấy người hạ tiện đứng quanh thấy vậy bèn cơ hiềm. Một phần vì tật đố, một phần vì hiếu kỳ, họ xì xầm với nhau “Thầy A-nan đẹp trai, đem cho cô gái kia hai phần bánh in nồng hậu. Chắc hai đàng đã quen biết trước, có tình ý gì rồi đa.”

A-nan nghe mấy lời bàn tán, trong lòng không vui. Thiệt miệng người độc địa, chẳng biết phải cư xử ra sao mới vừa? Người tu hành, vốn đã chịu nhiều thua thiệt, mà thế gian đinh ninh rằng đã tu thì phải nhẫn nhục, họ lại hay nặng nhẹ cho tổn thương.

Đức Phật thường dạy các đệ tử nên tránh mọi cơ hiềm của thiên hạ, nhất là về vấn đề nam nữ. Chẳng cần biết ông tu hành chín chắn ra sao, nếu để bị mang tiếng dính dáng với nữ nhân, thì chắc chắn là cất đầu lên không nổi. Thật ra, đối với người chưa chứng Thánh quả mà nói hoàn toàn không mê sắc đẹp là chuyện không thể có. Nhưng bậc tu hành đối với ái dục nên phòng thủ chắc chắn, đề cao cảnh giác.

A-nan thường nghĩ đến việc bị khổ phiền vì chuyện đàn bà con gái. Một hôm, Tôn giả ngồi tư duy nơi chỗ vắng, nghĩ thầm “Người đời đều do ái dục mà sanh, sinh hoạt hằng ngày bị nhận chìm trong ái dục mà không biết chán. Họ vừa thích tìm cầu ái dục cho bản thân, lại vừa thích đàm tiếu chuyện ái dục của người khác. Ái dục đem lại nhiều khổ não, tranh đấu cho thiên hạ. Đức Thế Tôn thường quở trách ái dục, thật là có ý sâu xa.”

A-nan thuở giờ chưa nghĩ đến mấy chuyện này, đến khi vì chia bánh in cho cô gái đẹp bị mang tiếng nọ kia, Tôn giả mới thấm thía. Chiều xuống, Tôn giả đứng dậy, chỉnh y phục, đến trước Phật đem hết những cảm tưởng của mình bạch với đức Thế Tôn. Phật nghe xong, bèn kể cho A-nan nghe về một đoạn nhân duyên của Ngài trong đời quá khứ:

“A-nan! Ông nói đúng, người đời bị chìm trong biển dục không biết nhàm chán. Thời quá khứ, có một ông vua tên Đảnh Sanh dùng pháp ôn hòa trị dân, không cầm dao gậy chi cả mà người hung ác đều phục tùng. Nhưng nhà vua là một người tham dục, đắm sắc. Khi cai trị thì đi đến đâu cũng nghe nhơn dân ca tụng đức độ, nhưng về phần dục lạc lại quá đam mê. Bao nhiêu cung phi, mỹ nữ trong nước còn chưa đủ, nhà vua lại tuyển chọn thêm giai nhân của các nước. Nhà vua bị đoanh vây trong ngũ sắc, cung tần ái phi hầu hạ ngày đêm, nhà vua cũng không vừa ý, tính chuyện giết luôn quốc vương nước bạn để đoạt lấy hoàng hậu. Rốt cuộc vì tham dục quá độ, chìm đắm trong bể sắc, triều chính ngày càng bê trễ, bị nhân dân nổi loạn, vương quyền tiêu tan, nhà vua phải chịu những ngày tàn thê thảm.

A-nan! Tham dục không biết chừng tai hại đến như thế. Vua Đảnh Sanh đó là một tiền thân của ta.”

A-nan nghe Phật khai thị xong, tự nghĩ một người ôn nhu như mình, cũng giống vua Đảnh Sanh, lại càng phải gấp hạ thủ công phu xa lìa ái dục.

6- LÀM THỊ GIẢ PHẬT

A-nan từng được Phật chấm là người có thể nối thạnh Phật pháp. Tôn giả đặc biệt bị nhiều nữ nạn, nên vì muốn A-nan giữ được bản thân chuyên tâm tu đạo, Phật nghĩ đến việc chọn A-nan làm thị giả. Đó là vào khoảng thời gian đức Thế Tôn trên năm mươi tuổi, Ngài trụ tại tinh xá Trúc Lâm, việc tuyển chọn này xảy ra.

Trước đó, khi Phật thành đạo không lâu, hầu cận Ngài có hai tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Sau lại đến Tỳ-kheo Na-ca-ba-la (Migajàla) cũng từng làm thị giả. Có thể nói, trong hai mươi năm, đức Thế Tôn không có thị giả thường trực cố định, các Tỳ-kheo thay phiên nhau hầu Phật.

Đức Thế Tôn ngày càng già, cần có một vị thị giả túc trực bên cạnh. Các đệ tử Tỳ-kheo bèn triệu tập một buổi họp, đề cử một vị thị giả. Phiên họp này các đệ tử thượng thủ rất đông, trong số đó, trước tiên là Kiều Trần Như đứng dậy xin làm thị giả Phật. Tôn giả là một trong năm vị Tỳ-kheo vốn là cựu thần theo Phật trong thời kỳ Ngài tu tập khổ hạnh. Có thể nói tôn giả là vị Tỳ-kheo đầu tiên trong giáo đoàn. Tuổi tác của tôn giả tuy lớn hơn Phật, đem tấm lòng thành xin suốt đời hầu hạ Thế Tôn. Nhưng đức Phật không hứa khả. Ngài nói rằng tôn giả đã già nua, chỉ cần tự lo cho mình cũng đủ rồi. Kế đó, cũng có nhiều vị xin làm thị giả Phật, Phật đều từ chối, bảo các vị hãy lo đi hóa đạo nơi khác. Lúc ấy, tôn giả Mục-kiền-liên biết ý Phật, bèn rủ Xá-lợi-phất đến khuyên A-nan:

- Tỳ-kheo A-nan! Ý đức Thế Tôn chọn ông làm thị giả. Giống như tòa lâu đài mở cửa về phía Đông, ánh nắng sẽ chiếu thẳng đến vách phía Tây. Ông còn trẻ, mau mắn, thông minh nhu hòa, chúng tôi mong rằng ông sẽ bằng lòng.

A-nan nghe nói, thấy trách nhiệm quan trọng bèn từ chối. Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cố khuyên mãi, Tôn giả mới đưa ra ba điều kiện:

                * Một, A-nan không mặc y phục thừa của đức Phật, dù cũ hay mới.
                * Hai, nếu có Phật tử thỉnh Phật cúng dường, A-nan không đi trước.
                * Ba, không phải thời đến gặp Phật, A-nan không đến.

Ngoài ra đều xin theo hầu Phật như ý.

Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất đem ý của A-nan bạch lại với Thế Tôn – đối với Phật mà cũng ra điều kiện. Nhưng đức Phật chẳng những không giận, mà còn rất hoan hỷ khen A-nan:

- A-nan thật là vị Tỳ-kheo có phẩm cách. Ông ấy đưa ra các điều kiện trên là để tránh sự cơ hiềm, đó là sự dự phòng chánh đáng. Tỳ-kheo A-nan sợ các thầy

khác phê bình rằng: "Thầy A-nan vì muốn mặc áo đẹp, ăn ngon mới làm thị giả. A-nan vì vật chất mới theo hầu Phật". Ông ấy biết lo xa nên mới yêu cầu như vậy.

Từ khi A-nan làm thị giả Phật lúc ấy khoảng hai mươi tuổi. Trong hai mươi bảy năm theo bên cạnh đức Thế Tôn, Tôn giả luôn luôn vâng theo ý Phật, hành động theo lời dạy của đức Thế Tôn, thường xuyên túc trực bên Ngài, đi các nơi giáo hóa. Do nhân duyên ấy mà tất cả biển Phật pháp đều rót vào tâm A-nan.

Tỳ-kheo A-nan, mỗi ngày ở cạnh đức Phật, sự phiền nhiễu về người nữ giảm dần, và tôn giả nghiễm nhiên là người trung gian giữa Phật và các Tỳ-kheo.

Sống trong Tăng đoàn, A-nan thường giữ tánh khiêm tốn, kính nhường, biết tàm quý. Rất nhiều tín chúng nhờ quen biết với A-nan mà đến quy y với Phật. Tuy trước đây, A-nan hay bị những rắc rối với phái nữ khiến thiên hạ có những lời phê bình chẳng hay ho, đến khi một phen gánh vác trọng trách, Tôn giả đã tu dưỡng rất thuần thục.

7- TÌNH BẠN TRONG PHẬT PHÁP

Đã là thị giả Phật, mà lại chưa khai ngộ, nhưng trong Tăng đoàn vẫn xem A-nan đồng bậc với các vị thượng thủ đáng kính. Kỳ thật là vì tâm tính của Tôn giả ôn hòa khiến cho ai ai tiếp xúc qua đều cảm thấy mát như gió xuân. A-nan đối với người không hề đưa điều tốt của mình ra, hoặc nói cái dở của người. Luôn luôn ẩn ác dương thiện, tận tâm giúp đỡ mọi người cho họ được dễ dàng. Mỗi khi cùng ngoại đạo luận bàn Phật pháp, cũng chỉ hiển chánh mà không phá tà. Tôn giả chưa từng có ý hại người để lợi mình, Tôn giả như tia nắng xuân ấm áp từ từ làm tan băng giá.

Khi ở tại tinh xá Trúc Lâm, A-nan đã từng khiến ngoại đạo Câu-già-na không dám đưa vấn đề đến hỏi khó Tăng đoàn. Ở vườn Cù-sư-la, Tôn giả cũng khiến ngoại đạo Chiên-đà cảm động, hoan hỷ phụng hành Phật pháp. A-nan tuy không hề biện luận thao thao với ngoại đạo, nhưng danh tiếng của Tôn giả đối với họ không nói cũng biết.

A-nan có duyên với chúng sanh, nên trong số bạn bè tục gia, và các thầy Tỳ-kheo, rất nhiều người kết giao với tôn giả. Tôn giả thích nghe người thuyết pháp, cũng thích thuyết pháp cho người nghe. Phật từng nói A-nan chỉ cần nhìn qua diện mạo và thái độ của người, cũng đoán biết được tánh tình người ấy. A-nan đối với cư sĩ, như mẹ hiền thương con, còn đối với bậc trưởng lão thượng túc, lại ôn hòa như em út.

A-nan có một người bạn cư sĩ tên Lư-gi, ở tại thành Ba-sa. Một hôm, đức Thế Tôn dẫn các đệ tử quang lâm đến đấy, bộ tộc Ma-la trong thành rất vui mừng cung nghinh. Họ cùng ước định, người nào không ra đón Phật sẽ bị phạt hai trăm đồng vàng. Lư-gi lại là người không có một chút lòng tin Phật pháp. Trừ A-nan, ông không hề tôn kính một người xuất gia nào, dù đó là đức Phật.

Nhưng hôm ấy, Lư-gi cũng có mặt trong đoàn người cung đón Phật, A-nan thấy bạn một phen ngạc nhiên. Hỏi ra thì ông ta nói rằng vì sợ bị phạt hai trăm đồng vàng nên phải ra đón Phật. A-nan nghe xong chẳng vui nhưng vẫn nhiệt tình tiếp đãi bạn. Sau đó, trong lúc nghỉ ngơi, A-nan đem chuyện Lư-gi thưa với Phật. Phật rất thông cảm, cho là y đáng thương và bảo A-nan tìm cách đưa y đến gặp Phật. Phật khai thị rất nhiều, sau cùng Lư-gi cởi mở tâm tình, phát tâm quy y Tam bảo, giữ ngũ giới.

Về sau Lư-gi thường mang các thứ y phục, thức ăn, thuốc men, ngọa cụ… đến cúng dường Phật. Và cảm tình của A-nan đối với bạn càng thân thiết, vốn xưa là bạn cũ, bây giờ lại cùng một thầy, nên A-nan xem gia đình bạn như gia đình mình.

Một hôm, A-nan cần ít thước vải bèn đến nhà Lư-gi xin. Hôm ấy, Lư-gi đi vắng. A-nan nghĩ rằng: “Đã đến đây, chẳng lẽ về tay không”, bèn thực tình nói với vợ con Lư-gi đem vải ra, tùy tiện chọn một tấm mang về. Lư-gi lúc sau nghe vợ con nói lại, bèn vội đến tinh xá, hỏi A-nan:

- Sao Tôn giả không chọn thứ vải tốt, lấy làm gì cái thứ vải thô ấy?

- Tôi không cần vải tốt. Tôi chỉ chọn vải thô để làm khăn tắm, thay thế bạn cúng dường cho các vị Thượng tọa đấy thôi.

Cảm tình giữa hai người thân thiết như vậy, đương nhiên có một số người trong Tăng đoàn phản đối thái độ tự nhiên ấy, nhưng đức Phật không hề ngăn cấm việc làm của Tôn giả.

A-nan làm thị giả, tuy không giống tinh thần hoạt động tân tiến của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, mà cũng không giống sự bảo thủ của Đại Ca-diếp. A-nan là người ôn hòa, nên tánh tình rất mực trung dung.

A-nan từng tiếp tay với đức Phật, khuyên bảo thầy Tỳ-kheo Quật-đà – nhà thầy vì ái dục nên muốn ra đời – A-nan cổ động thầy tu hành cho đến chứng Thánh quả. Tôn giả cũng từng điều hòa những tranh chấp trong Tăng đoàn, khiến kẻ ưa gây gổ biết phục thiện. Ở tinh xá Kỳ Viên, A-nan từng đàm luận với Xá-lợi-phất về vấn đề “diệt đế”, “sáu xúc chạm”. Ở thành Ba-liên-phất, cùng Bạt-đà-la đàm đạo các vấn đề, ở nước Câu-diệm-di nói các yếu điểm tu đạo cho các Tỳ-kheo, tại Đông viên từng thay Phật nhận lời thỉnh của các Tỳ-kheo đi trước thuyết pháp, khen ngợi lòng hiếu của Mục-kiền-liên, tuyên dương sự thuyết pháp của Phú-lâu-na. Trong và ngoài giáo đoàn, Tôn giả đối với mọi người đầy pháp tình hữu nghị, đủ để biểu lộ hết tư cách và nhiệm vụ của một đại đệ tử.

8- ÔNG ANH ĐÁNG GIẬN

Người mà A-nan giận nhất trong đời, phải kể là ông anh Đề-bà-đạt-đa.

Đề-bà-đạt-đa cũng là một trong bảy vị vương tử đầu tiên xuất gia theo Phật. Có thể vì ham vui mà đi theo chứ không phải phát tâm chân chánh, nên sau khi xuất gia ông không an tâm tu hành, hay khoe điều kỳ lạ để lòe người, và muốn đắc thần thông.

Tuy là anh em ruột, nhưng A-nan và Đề-bà-đạt-đa tánh tình khác xa. Đề-bà-đạt-đa vốn nhiều dã tâm mà không an phận. Đức Phật thường khuyên ông nên hoàn tục làm cư sĩ ủng hộ Phật pháp, không nên ở trong Tăng đoàn tạo tội, nhưng ông không nghe.

Ông yêu cầu Phật dạy về pháp môn thần thông, nhưng Phật bảo ông trước hết phải tu tập cho thân tâm thanh tịnh, không nên tham cầu phép lạ, vì thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu cho đức hạnh. Sau khi Phật từ chối, ông rất tức giận, lại đến nài nỉ Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, các vị đại A-la-hán dạy thần thông cho mình. Xá-lợi-phất và các vị biết tánh ông hung ác cũng đều từ chối, chỉ dạy ông tu quán đạo lý khổ, không, vô thường, vô ngã.

Do đó, Đề-bà-đạt-đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng không tiêu diệt đức Phật thì không thể tự do tung hoành. Và thề từ nay về sau không đội trời chung với Phật.

Một hôm, A-nan cùng đức Phật đi ngang qua núi Kỳ-xà-quật, gặp lúc Đề-bà-đạt-đa đang đi dạo trên đỉnh núi. Vừa thấy Phật, ông biết đây là cơ hội ngàn năm, bèn vần một tảng đá to nhắm ngay đức Thế Tôn xô xuống. Thấy có em mình là A-nan theo bên Phật, Đề-bà cũng chẳng kể tình ruột thịt, xô tiếp luôn tảng đá. Bên dưới đức Thế Tôn vẫn đứng yên, còn A-nan phải nhảy tránh ra xa. Tảng đá rớt bên chân Phật. Một lúc sau, A-nan mới hoàn hồn hỏi thăm Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài không việc gì chứ? Chuyện này chắc lại do Đề-bà-đạt-đa gây ra. Con thật không giữ nổi bình tĩnh. Thế Tôn gặp cảnh nguy hiểm quá.

Phật an nhiên đáp:

- A-nan! Dùng bạo lực hoặc âm mưu để hại Phật, đều không thể được. Trước kia, Đề-bà-đạt-đa sai người giết lén ta, rồi thả voi say, bây giờ thì xô đá rớt đè. Nhưng ông đừng lo, người nào tạo nghiệp người ấy sẽ chịu hậu quả. Ta không thấy ta gặp nguy hiểm mà thấy ông bị một phen hoảng sợ, ông xem ông vừa làm gì đấy?

Đạo lực của A-nan làm sao sánh bằng Phật, Tôn giả hổ thẹn, cười và thưa:

- Con vừa mới hoảng kinh nhảy lên, đã bị Thế Tôn bắt gặp.

Phật cũng cười, vỗ nhẹ A-nan rồi hai thầy trò tiếp tục đi.

Cách đó không lâu, một hôm khác, A-nan theo Phật du hóa, trên đường đi bỗng gặp Đề-bà-đạt-đa dẫn nhiều người đi ngược chiều sắp đến. Đức Phật bèn vội tránh sang đường khác, đi một bên đường mòn. Tuy bản tánh ôn hòa, A-nan cũng không dằn được bực tức, bèn thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sao Thế Tôn lại né tránh Đề-bà-đạt-đa? Ông ấy là đệ tử Phật, chẳng lẽ Ngài lại sợ ông ấy sao?

Phật biết tâm A-nan bất bình, bèn an ủi:

- A-nan-đà! Ta chẳng phải sợ gì ông ấy, nhưng ta không muốn gặp mặt. Cần gì phải tiếp xúc với người ngu? Như đánh nhằm chó điên ắt là bị cắn bậy. Với người đầy ác tâm như ông ấy, không gặp mặt, không phải là tốt hơn sao?

Thầy nhường lối đi cho trò, đó là chuyện xảy ra thông thường cho những hạng đệ tử như Đề-bà-đạt-đa.

A-nan nghe Phật dạy, tuy vẫn còn bực mình nhưng không nói thêm nữa.

Một lần khác, Đề-bà-đạt-đa đến quấy rối đạo tràng của đức Phật. Phật đang tịnh tọa trong thất, y bèn đứng ở giảng đường la lối:

- Các thầy! Ai tin theo ta thì đến đây!

Mặc cho y nói gì thì nói, các Tỳ-kheo chẳng thèm đếm xỉa đến. Đề-bà-đạt-đa quay sang A-nan:

- A-nan! Mi là em ta, mi dám không tin lời nói của ta hử?

Một bề ôn hòa nhã nhặn như A-nan mà lúc đó cũng chịu không được, đáp thẳng thừng:

- Hôm nay may cho anh lắm đó. Nếu có mặt hai tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ở đây, chắc không để cho anh thao túng như vầy. Đức Thế Tôn đang tịnh tọa, xin anh đừng làm ồn. Anh hung ác quá đỗi, nghĩ đến lúc sau này anh gặp quả báo dữ, tôi thật buồn cho anh!

Đề-bà-đạt-đa nổi giận, muốn động thủ đánh A-nan, nhưng thấy A-nan chưa bao giờ nổi xung đến như vậy bèn không dám nhấc tay, chỉ làm thinh bỏ đi.

Ít lâu sau, ác báo của Đề-bà-đạt-đa xảy ra hiện tiền, phải chết một cách thê thảm. Trong lòng A-nan nghĩ đến một ông anh như Đề-bà-đạt-đa, thật là khó quên.

9- LỜI DỰ ĐOÁN CỦA PHẬT

A-nan làm thị giả Phật trong hai mươi bảy năm thật đắc lực. Mỗi khi có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni và các tín đồ tại gia đến tham bái Phật, Tôn giả đều sắp đặt thời gian thích hợp. Các Tỳ-kheo ở xa đến viếng Phật, khi chưa được gặp Phật, cũng rất thích nói chuyện với A-nan. Tất cả mọi người đều tin tưởng thân thiết nơi Tôn giả. Còn các Tỳ-kheo ni rất thích nghe Tôn giả giáo giới. Mỗi khi Tôn giả bảo:

- Các chị em! Nên tuân giữ giới luật cẩn thận!

Ai nấy đều hoan hỷ tiếp thọ.

Các tín đồ nam nữ tại gia cũng rất thích nghe A-nan thuyết pháp. Tôn giả thường dạy họ tôn kính Tam Bảo, giữ năm giới, phụng dưỡng song thân, cúng dường Tăng chúng. Họ thích A-nan giảng dạy mà không thích A-nan làm thinh. Tôn giả còn là người chưa khai ngộ, mà đã có đầy đủ những đức tốt như thế.
Theo hầu bên Phật đi hóa đạo khắp nơi, thấm thoát A-nan đã năm mươi tuổi.

Một hôm, Phật ở tại giảng đường nơi thành Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc, A-nan đứng hầu, trên mặt lộ vẻ buồn lo. Phật hỏi A-nan vì sao ra như vậy. A-nan mới thưa rằng trong một đêm, Tôn giả nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến lòng hoang mang lo sợ. Phật liền hỏi:

- Ông nằm mộng thấy bảy việc gì?

- Bạch Thế Tôn! Giấc mộng thứ nhất, con thấy nước ở sông to, biển cả đều bị lửa đốt cháy, ánh lửa bốc lên thấu trời xanh.

Đức Phật nghe xong đổi sắc mặt, dường như cảm xúc và giải thích:

- Này A-nan! Bậc thánh vốn không nói chuyện mộng mị. Nhưng mộng của ông quả thật kỳ quái. Nước sông ngoài biển cả bị lửa thiêu trọn, đó là tượng trưng cho các Tỳ-kheo trong Tăng đoàn tương lai, ác nghịch mạnh, tâm lành ít ỏi, chấp giữ vào sự cúng dường rồi lại sanh ra gây gổ, như nước trong lặng mát mẻ lại biến thành biển lửa. Giấc mộng thứ hai của ông ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy mặt trời sắp lặn, thế giới Ta-bà tối đen, trên bầu trời không có lấy một ngôi sao!

Đức Phật đã tám mươi tuổi, lúc ấy rất cảm khái giải thích:

- Này A-nan! Không bao lâu ta sẽ vào Niết-bàn, các đại đệ tử cũng Niết-bàn, điều ấy biểu thị bằng con mắt của nhơn thiên sắp tiêu diệt. Còn giấc mộng thứ ba?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy các Tỳ-kheo không theo lời Phật dạy mà cũng đắp ca-sa, chúng xuất gia rớt dưới hầm, còn hàng tại gia thì đi trên cầu.

Phật thốt nhiên thở dài nói:

- A-nan! Điều ấy ám chỉ Tỳ-kheo đời sau mở đại hội giảng kinh chỉ nói ngoài miệng, không phụng hành, họ lại tật đố hại nhau, không sợ nhân quả, rốt cuộc bị đọa lạc. Hàng cư sĩ thừa cơ lên tòa cao, khinh chê Tăng bảo. Họ xâm chiếm chùa chiền, phỉ báng Tỳ-kheo, hủy hoại tháp miếu. Còn điềm mộng thứ tư?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy Tỳ-kheo pháp y không đủ, bị mắc kẹt trong đám gai.

Phật lại cảm xúc nói:

- A-nan! Điều ấy nói rằng các Tỳ-kheo sau này bỏ pháp y không mặc, xả giới luật, ưa thế tục, nuôi nấng vợ con, đó thật là bất hạnh cho Phật pháp! Mộng thứ năm ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy trong rừng rậm um tùm, có rất nhiều heo rừng đào bới gốc rễ các đại thọ chiên đàn.

Phật lộ vẻ lo buồn nói:

- Ôi! Điều đó nói các Tỳ-kheo sau này chỉ tính toán về sinh kế, buôn bán Như Lai, tụng kinh làm nghề nuôi thân. Còn mộng thứ sáu?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy voi lớn bỏ rơi voi con, sư tử là chúa loài thú chết, hoa thơm rơi trên đầu, cầm thú kinh sợ bỏ chạy. Chẳng bao lâu trong thân sư tử sanh trùng bọ, trở lại cắn rỉa thịt sư tử.

Phật chỉ còn biết lắc đầu nói:

- Voi lớn bỏ voi con, đó là điềm báo hiệu các Tỳ-kheo trưởng lão đời sau tự lo lợi riêng, không nâng đỡ lớp thanh niên hậu bối! Trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, đó là ám chỉ không phải ngoại đạo phá hoại Phật pháp, mà chính hàng đệ tử xuất gia, tại gia tự phá hoại pháp của ta. Còn giấc mộng thứ bảy của ông ra sao?

- Con thấy đầu con cao ngang đỉnh núi Tu-di.

Phật trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- A-nan! Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Trời, người dân chúng đều nhờ ông kết tập kinh điển.

Bảy điềm mộng của A-nan, qua sự giải thích của Phật, đã dự đoán sự suy đồi của Phật giáo về sau, và sự đổi thay của thời đại.

“Như trùng trên thân sư tử, lại ăn thịt sư tử” đó là điều chê cười hàng đệ tử Tăng tục hiện nay. Chỉ thị ấy đối với chúng ta là một sự đau đớn khốc liệt thấu xương.

Chúng ta có thể phỏng đoán, vào những năm đức Phật về già, vì các điềm mộng của A-nan mà giải nói một cách cảm khái như vậy, tâm tình thật trầm trọng.

Hổ thẹn cho chúng ta sanh nhằm thời mạt pháp, phải làm thế nào để cho đức Thế Tôn hoan hỷ, để cho lời dự đoán kia không thành sự thật.

10- BÊN GIƯỜNG NIẾT BÀN HỎI DI GIÁO

Đức Thế Tôn thành đạo đã bốn mươi chín năm, đã đến lúc nhập Niết-bàn. Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt ở nơi rừng Ta La Song Thọ, thành Câu-thi-na, cách Ca-tỳ-la khoảng ba mươi dặm.

Như mặt trời sắp lặn lóe lên tia sáng cuối cùng, trước khi Niết-bàn từ kim thân đức Thế Tôn phóng ra ánh hào quang đặc biệt khác thường. A-nan theo hầu bên Ngài nhận được sự chiêu cảm ấy, và do sức huân tu bên cạnh bậc đạo sư, đức huệ của Tôn giả ngày càng thành thục.

Đức Thế Tôn nằm kiết tường trên sàng tòa do A-nan trải sẵn, đầu quay về phương Bắc. Lúc ấy mặt trời đã chìm ở cõi Tây, bóng tối mông lung phủ đầy, cây Ta-la không phải kỳ trổ hoa mà vẫn nở, không cần gió đưa mà từng phiến hoa lác đác rơi quanh thân đức Bổn sư. A-nan quỳ bên gối Phật, nhẹ giọng thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Về sau đối với người nữ, chúng con phải có thái độ thế nào? Xin Thế Tôn nói lại một lần nữa cho con rõ.

- A-nan! Ngươi muốn xa lìa phiền não, đạt đến chứng ngộ không thể bận tâm vì nữ nhân. Nhất là ông, tuy bây giờ đã lớn tuổi rồi đó, nhưng ông không tiếp xúc với họ vẫn tốt hơn. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc nên xem người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em. Này A-nan! Ông phải nhớ kỹ lời ta đấy!
Đức Thế Tôn trả lời vấn đề ấy xong, lại dạy rõ về cách thức trà tỳ, xây tháp, mỗi mỗi dặn dò. A-nan vốn tình cảm yếu đuối, nghe những lời Phật dạy, nghĩ đến đây là lời dạy bảo sau cùng của đấng Đạo sư, mủi lòng rơi lệ. Tôn giả không dám quỳ bên Phật, vội lùi ra sau rừng cây khóc lóc một phen.

A-nan nghĩ đến lúc Thế Tôn vào Niết-bàn, các đại đệ tử khác đều đã khai ngộ, chỉ còn ta, sau này sẽ nương vào ai để đạt đạo đây? Nghĩ đến từ nay về sau không còn ân sư để hầu hạ, Tôn giả lại càng buồn đứt ruột.

Đức Phật không thấy A-nan bên cạnh, bèn sai người ra kêu Tôn giả vào. Ngài lại dạy tiếp:

- A-nan! Ông không nên buồn rầu! Có hội họp phải có biệt ly, có hưng thạnh thì có lúc suy diệt, ta chẳng từng nói với ông đó ư? Thế gian là vô thường, có sanh ắt có tử, cỗ xe đã hư nát rồi mà còn tìm cách sửa chữa lại để xài, đó không phải kế lâu dài. Sắc thân hữu vi phải bại hoại. Đứng về pháp tánh thì ta luôn luôn chiếu cố đến các ông. Ông theo làm thị giả ta rất lâu, ân cần nhẫn nại, ông đối với ta không hề thiếu sót, ta đem công đức ấy đền đáp cho ông. Ông nên dụng tâm tinh tấn tu tập chẳng bao lâu sẽ đoạn dứt phiền não, chứng Thánh quả!

Đức Thế Tôn nói đến đó, A-nan lại cảm xúc khóc không ra tiếng. Đức Thế Tôn nhìn quanh đại chúng nói tiếp:

- Này các Tỳ-kheo! A-nan làm thị giả ta rất trung thành, theo bên ta bao nhiêu năm một mực ôn hòa tử tế, nghe kinh pháp không quên sót, tương lai sau này công đức của ông ấy sẽ rạng rỡ trên thế gian.

A-nan tay bưng mặt, lại đi ra chỗ khác. Lúc ấy nhằm trăng tròn tháng hai, ánh trăng trong vắt trải khắp rừng Ta-la. Tâm tưởng của đức Thế Tôn tịch nhiên cao vọi thấu suốt hết tất cả hội chúng. Nét mặt mọi người đều hiện ra vẻ trang nghiêm vô cùng và lúc đó ai cũng khóc lóc bi thương, dù rằng bậc Thánh đi nữa cũng không ra khỏi tình người!

Đại chúng cứ khóc hoài chẳng nín, chẳng biết nước mắt dùng làm gì trong lúc này? Đúng hơn là phải đưa vấn đề làm sao để cho Phật pháp tồn tại lâu dài ra thưa hỏi Thế Tôn. Mọi người thương lượng với nhau, rồi lại tìm A-nan, cử Tôn giả đến hỏi Phật mấy vấn đề:

                    + Thứ nhất, Thế Tôn Niết-bàn rồi lấy ai làm thầy?
                    + Thứ hai, sau khi Phật Niết-bàn, an trụ như thế nào?
                    + Thứ ba, làm sao hàng phục kẻ ác?
                    + Thứ tư, khi kết tập kinh điển làm sao mọi người có thể tin?

 Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ, từ bi vui vẻ trả lời:

- Này A-nan! Các ông nên nhớ kỹ, các ông nên y theo giới luật làm thầy, an trụ trong tứ niệm xứ, gặp người hung ác mặc tẫn lánh đi, đầu kinh nên để “Tôi nghe như thế này…” khiến người tin được. Các ông nên làm đúng như pháp, pháp là nơi thường trụ của pháp thân ta.

Thế Tôn nói xong, mọi người nghe rồi lại cảm động, lại thương tâm!

                    Tiếng nói ấy uy nghiêm làm sao!
                    Thế Tôn vào Niết-bàn ngay khi ấy.

Đệ tử các nơi nghe tin đều tập hợïp kéo về. A-nan nghĩ đến lúc đức Thế Tôn còn tại thế, hàng nữ nhân ít có người được thấy Phật tham bái. Lúc này, Tôn giả bèn ưu tiên cho các Tỳ-kheo ni và các tín nữ đến đảnh lễ di hài Thế Tôn trước. Tôn giả luôn luôn thông cảm với người nữ.

11- THAM DỰ CUỘC ĐẠI HỘI KẾT TẬP

Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi. A-nan như con thơ mất mẹ, dự lễ trà tỳ viên mãn, tôn giả một mình trở về tinh xá tưởng niệm ân sư. Trải qua mấy ngày mỏi mệt, thân thể đau đớn, Tôn giả bèn đóng cửa thất tịnh tọa, mỗi ngày chỉ uống một ít sữa, không ăn gì thêm, không nói một lời như thế suốt ba ngày.

Ba ngày sau Tôn giả lên đường về thành Vương Xá phương Nam, vì đã gần ngày kết tập kinh điển. Tuy A-nan chưa khai ngộ, nhưng Tôn giả có địa vị trọng yếu trong giáo pháp, Tôn giả không thể không vì pháp quên mình, và trước hết báo đền pháp thân huệ mạng cho đức Thế Tôn.

Trên đường đi, một phen ngang qua nước Tỳ-xá-ly, có thầy Tỳ-kheo vẫn thường theo bên Tôn giả từ trước đến nay, bỗng tản lạc đi đâu. Tôn giả về đến thành Vương Xá, bị Đại Ca-diếp quở trách một phen, cũng lặng thinh chịu tội.

Lúc Tôn giả về đến thôn Kim Cang, nước Tỳ-xá-ly, khoảng một tháng sau đức Thế Tôn Niết-bàn. A-nan là cao đệ thường trực bên cạnh Phật, nên những tín chúng ngưỡng mộ Thế Tôn, nghe tin tự nhiên kéo đến bên tôn giả. Mỗi ngày họ tụ tập ở tinh xá, yêu cầu A-nan thuyết pháp cả ngày lẫn đêm. A-nan không thể từ chối phải chìu ý mọi người, phương tiện khai thị cho họ.

Trong tinh xá, cũng có thầy Tỳ-kheo tên Bạt-xà-phất, vì tín chúng tụ tập, đi lại nói năng ồn ào, những tiếng động lao xao cứ lọt vào tai thầy khiến thầy không thể ngồi yên tham thiền. Thầy lại là một vị Tỳ-kheo đã chứng quả, do đó thầy lại thầm trách A-nan tự thân không chịu cầu khai ngộ, mà cứ thuyết pháp cho thiên hạ. Đến nỗi bực quá, thầy bèn làm thơ nói mát mẻ A-nan.

A-nan bị đả kích, không dám cãi gượng, Tôn giả biết thân mình là hàng hữu học chưa ngộ đạo. Kỳ hạn an cư ở Vương Xá đã đến gần kề, trách nhiệm đọc tụng kinh điển về ai, Tôn giả cũng có thể đoán được điều ấy. Trong lúc cực kỳ hệ trọng này mà phí công giảng thuyết đầu lưỡi, có lợi ích gì? Bẩm tánh A-nan vốn ôn hòa nhường nhịn, nên Tôn giả thôi thuyết pháp cho tín đồ, dự bị lên đường về Nam. Chẳng phải Tôn giả không biết trình độ tu chứng của mình, nhưng Tôn giả hay chìu theo ý mọi người. Phen này phần bị cư sĩ khích lệ thuyết pháp, phần thì chìu họ mà mắc lỗi, phần thì bị bạn đạo chê cười châm biếm, lời trách cứ của Bạt-xà-phất như mũi tên nhọn đâm ngay tim A-nan. Từ đó, Tôn giả phát nguyện đem tâm hướng ngoại quay trở về bên trong, mong sớm khai ngộ.

Khi A-nan về đến thành Vương Xá, vừa đúng một ngày nữa là đại hội kết tập bắt đầu. Lúc ấy, tôn giả Đại Ca-diếp được cử làm thủ tọa, tuyển chọn năm trăm vị Tỳ-kheo tham dự đại hội. Các vị ấy đều là bậc A-la-hán, cho nên không kể tên A-nan, vì A-nan chưa đạt được quả vị.

Đương nhiên là Đại Ca-diếp cũng thừa nhận sở trường của A-nan, bao nhiêu lời thuyết pháp của đức Thế Tôn, A-nan đều ghi nhớ chẳng sót, nhưng chỉ sợ một điều quan trọng là: Nếu như để cho một người chưa dứt hết phiền não như A-nan tham dự đại hội, thì đối với đức Phật đã nhập diệt và chúng sanh đời sau, chẳng biết sẽ có những lỗi lầm như thế nào?

A-nan tuy chưa khai ngộ nhưng lại được cảm tình của mọi người rất nhiều, ai ai cũng ủng hộ Tôn giả. Cho nên khi nghe mọi người đề cử A-nan. Đại Ca-diếp bèn nói:

- A-nan chưa chứng Thánh quả. Tôi cũng biết ông ấy là sư tử, nhưng hiện tại chỉ là sư tử ở trong bầy dã can thôi.

A-na-luật cũng đồng ý với nhận xét đó. Điều này thật là một sự bất ngờ cho A-nan. Vì A-na-luật cũng là anh em chú bác với A-nan. Nhưng A-nan có bản tính quật cường, càng bị nén xuống thấp thì càng vọt lên cao. Những lời đả kích là duyên tốt cho Tôn giả. A-nan chẳng hề nản lòng, và như hoa mai mùa đông, phải chịu một cơn gió tuyết lạnh lùng mới tỏa hương đặc biệt. Chiều hôm ấy, Tôn giả nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ tận cùng, vào nửa đêm thì khai ngộ chứng quả. Ngày hôm sau, A-nan hiện đại thần thông, không đợi cửa động mở bèn bay vào đại hội.

Lúc ấy phong tư của Tôn giả như mặt trăng tỏ rạng vừa ra khỏi đám mây, như ánh thái dương chiếu trên những cánh hoa sen tươi đẹp. Các vị đại Tỳ-kheo đều kinh ngạc nhìn tôn giả biểu lộ sự tán thán. Dưới sự chỉ đạo của Đại Ca-diếp, và sự đề cử của toàn thể đại hội, tôn giả lên tòa sư tử, bắt đầu tụng:

“Tôi nghe như thế này, một thuở, Đức Phật ở tại nơi nọ…”. Tôn giả đem trí nhớ của mình tụng lại những thời thuyết pháp của đức Thế Tôn, lưu loát như nước chảy. Các đại Tỳ-kheo trong hội một lần nữa tiếp thọ lời dạy của Phật. Ai nấy đều cảm động, tôn giả Kiều-trần-như già nua xúc động đến nỗi xỉu tại tòa.

Những kinh điển đầu tiên như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng nhứt A Hàm, và các kinh Thí Dụ, Pháp Cú đều được kết tập trong kỳ đại hội lần thứ nhất này, do chính tôn giả A-nan tụng lại.

12- NHẬP NIẾT BÀN

Sau khi Phật nhập Niết-bàn, trưởng lão Đại Ca-diếp kế thừa y bát, hai mươi năm sau, Tôn giả đã hơn một trăm tuổi, bèn vào núi Kê Túc nhập Niết-bàn. Sắp ra đi, Tôn giả đem gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại A-nan, lúc ấy cũng gần tám mươi tuổi. Tôn giả kế thừa dòng pháp, cũng là điều tự nhiên như hoa đến kỳ kết quả, và đó cũng là niềm hy vọng của đức Thế Tôn.

Như thế, Phật pháp trong thời vua A-Xà-Thế ủng hộ đã mở mang bình thường. Từ lúc Đại Ca-diếp nhập diệt về sau hàng đệ tử thân cận đức Thế Tôn chỉ còn lại A-nan, lãnh đạo giáo đoàn cũng là A-nan, tuổi tác mỗi năm mỗi cao. Đến năm Tôn giả một trăm hai mươi tuổi, một hôm nọ trên đường đi, nghe một thầy Tỳ-kheo trẻ tụng bài kệ rằng:

                        Nếu người sống trăm tuổi
                        Không thấy thủy lão hạc
                        Chẳng bằng sống một ngày
                        Mà được thấy hạc ấy.

A-nan nghe qua, thấy bài kệ bị tụng sai lầm một cách tệ hại, thật là râu ông nọ cắm cằm bà kia, Tôn giả bèn lập tức cải chánh. Bài kệ phải tụng như thế này.

                        Nếu người sống trăm tuổi
                        Không hiểu pháp sanh diệt
                        Chẳng bằng sống một ngày
                        Mà được hiểu rõ ràng.

Thầy Tỳ-kheo kia nghe A-nan dạy xong, trở về thưa lại với sư phụ. Chẳng dè sư phụ của thầy nổi sùng nói rằng:

- Ông đừng nghe A-nan nói bậy. Năm nay A-nan đã già cả, lú lẫn rồi. Ta dạy ông không sai đâu.

Thầy Tỳ-kheo trẻ lại đem lời sư phụ nói lại với A-nan. Tôn giả định đi tìm ông ta để hỏi tại sao lại nói những lời ngu si như vậy? Nhưng suy nghĩ lại, con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc đã chịu nghe, nên thôi. Một vị trưởng lão ôn hòa như A-nan, thống lãnh giáo đoàn đương thời, nắm trong tay giáo quyền tối thượng, nhưng vẫn áp dụng lối xử sự nhún nhường.

Tuy vậy, một bậc trưởng lão thánh tăng đã một trăm hai mươi tuổi, đối với việc đời không còn chút lưu luyến, sau khi gặp chuyện trên lại càng chán ngán thế gian. Tôn giả nghĩ “Cái cõi đời này thật hết ý kiến. Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn chưa bao lâu mà có người hiểu sai Phật pháp như vậy, sau này trong giáo đoàn lại có những điều tà kiến sao cho xiết. Ta vì Phật tụng lại giáo pháp mà mọi người chấp chặt vào kiến chấp của họ, không chịu theo đúng pháp mà làm, ta còn ở lại nơi đây để làm gì?”

Nghĩ ngợi như vậy, Tôn giả tự nhiên nhớ đến đức Phật, rồi liên tưởng đến các vị đại đệ tử Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… Tôn giả lại suy tư triền miên: “Ôi! Những vị ấy như chim bay theo gió, một lúc vào Niết-bàn. Trong bao nhiêu vị thánh bây giờ chỉ còn mình ta, như rừng cây bị đốn sạch, còn sót lại một cây cổ thụ không đủ che mưa đỡ gió. Cõi nhân gian này thật trống rỗng, ta cũng nhập Niết-bàn thôi!”

Suy nghĩ xong, Tôn giả bèn quyết định đem Phật pháp trao phó lại cho Thương-na-hòa-tu, ôm bát hướng về sông Hằng mà đi. Nhân vì lúc ấy vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà đang khai chiến với Tỳ-xá-ly. Tôn giả dự tính nếu nhập diệt ở nước Ma-kiệt-đà thì di thể không được chia cho nước Tỳ-xá-ly, như đến Tỳ-xá-ly nhập diệt, họ cũng không chia phần cho Ma-kiệt-đà. Nên Tôn giả bèn chọn sông Hằng là biên giới giữa hai nước, sẽ ở trên không trung mà nhập Niết-bàn.
Vua A-Xà-Thế nghe tin A-nan sắp nhập Niết-bàn, cơ hồ muốn té xỉu. Nhà vua tức tốc mang binh mã đuổi theo, chạy đến bên bờ sông Hằng, thì tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông. Nhà vua bèn quỳ mọp sát đất mà lớn tiếng kêu:

- Đức Phật tối thắng tự tại! Xin Ngài từ bi, Tôn giả đã ban an lành cho chúng con. Tôn giả là đèn sáng của ba cõi. Xin Ngài hãy quay trở lại a!

Bờ sông bên kia, dân chúng Tỳ-xá-ly cũng tụ tập bên bờ, kêu réo như A-xà-thế. A-nan bèn ở trong thuyền nói lớn:

- Ta đã suy xét, chính vì sự oán hận của hai nước các ông, mới đặc biệt đến khoảng giữa sông Hằng mà nhập diệt, cầu mong cho các ông được hòa bình, thân thiện.

Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa hư không nhập Hỏa quang tam muội, tấn nhập Niết-bàn, khiến di thể rơi xuống hai bên, cho hai nước xây tháp cúng dường. Một tháp được xây ở giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tỳ-xá-ly, một tháp xây ở cạnh tinh xá Trúc Lâm thành Vương Xá. Do nhân duyên nhập diệt của Tôn giả, hai nước bèn cởi mở oán thù, không gây chiến với nhau, cứu được muôn ngàn tài sản và mạng sống nhân dân. Sự hy sinh của Tôn giả thật cao quý lớn lao vô cùng.

Tôn giả A-nan nhập diệt rồi, công lao của Ngài đối với đức Phật, sự cống hiến đối với Phật pháp, tư cách ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn nhân nhượng của một bậc thánh, mỗi độ gió xuân về, lại khiến mọi người hoài niệm.

La Hầu La


LA HẦU LA

MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT

1- CẬU BÉ HẠNH PHÚC

Đức Phật của chúng ta khi còn là thái tử của vương thành Ca-tỳ-la, đã kết hôn với công chúa Da-du-đà-la thành Câu-lợi. Vào năm thái tử và công chúa mười chín tuổi, sanh hạ La-hầu-la. Thái tử rất vui mừng, nhưng đó không phải là sự vui mừng như tình thường người đời khi sanh con. Vì thái tử đã nhiều lần xin vua cha đi xuất gia, đều không được chấp thuận. Vua Tịnh Phạn có nói “Trừ phi có được đứa cháu đích tôn thì mới cho phép thái tử xuất gia”. Hiện tại, thái tử đã có La-hầu-la như ý phụ vương, nguyện vọng xuất gia sẽ đạt được, bảo sao thái tử không vui mừng.

Trong đêm thái tử sắp rời hoàng cung, ngày mùng tám tháng hai, lúc ấy La-hầu-la mới sanh được bảy ngày. Vương phi Da-du-đà-la đang ôm La-hầu-la trong tay và nằm ngủ. Thái tử vén rèm nhìn hai người lần cuối, và quay lưng, leo lên lưng ngựa, vượt thành ra đi. Từ đó, La-hầu-la đã xa lìa hình bóng người cha thân yêu của thế gian.

Nhưng thái tử xuất gia thành Phật, thân phụ đổi thành lão sư, về sau độ La-hầu-la thành Thánh quả. Đó mới thật ông cha đệ nhất của thiên hạ.

La-hầu-la xa cha được mẹ và ông ngoại thương yêu, là vương tôn độc nhất vô nhị. Chuỗi ngày vô tư trôi qua trong cung, đến khi vừa hiểu biết, trong tâm hồn trẻ thơ của La-hầu-la cũng cảm thấy không có cha là một điều đáng buồn. Nhưng bù lại, cậu bé được mẫu thân rất mực cưng chìu, đó là niềm vui duy nhất của La-hầu-la, là nguồn an ủi, là người che chở cho cậu. Trong thâm cung vắng vẻ, La-hầu-la cũng là nguồn hy vọng của vương phi, hai mẹ con nương nhau cùng sống qua năm tháng.

Có người nói, Da-du-đà-la là phận nữ nhi khổ mệnh, La-hầu-la là đứa bé đáng thương, nhưng đó là nói theo thường tình thế gian. Nỗi khổ tâm, đáng thương của họ chỉ trong thời gian ngắn, hễ có hy sinh lớn tất thành tựu kết quả lớn. Về sau, nhờ sự hóa độ của đức Phật, Da-du-đà-la xuất gia khai ngộ, La-hầu-la xuất gia được chứng quả. Đó mới là bậc nữ lưu vinh hạnh nhất, là đứa bé hạnh phúc nhất!

Trước giờ cáo biệt, thái tử cũng định bế đứa con đang ngủ một tí, nhưng sợ làm động Da-du-đà-la thức dậy, lại cản trở việc xuất gia. Nên khi nhìn con lần cuối, Ngài đã nói: “Hãy đợi đến khi ta thành Phật, sẽ trở lại thăm con!” Đức Phật xem tất cả chúng sanh như La-hầu-la, một La-hầu-la không quan trọng bằng vô số La-hầu-la đang trông đợi tình thương của Phật. Đức Phật đã ban cho chúng sanh bao nhiêu lòng từ bi, thì ở trong hoàn cảnh của La-hầu-la, lại càng dễ được hưởng lòng từ bi của Phật. Cho nên chúng ta đừng cho rằng sự việc La-hầu-la xa lìa phụ thân từ nhỏ là đáng thương. La-hầu-la là con của bậc đại thánh, được nuôi dưỡng trong tình thương cao rộng như trời đất, là một cậu bé hạnh phúc nhất đời.

2- CHÚ BÉ KHÔNG BIẾT MẶT CHA

Đức Thế Tôn thành đạo được ba năm, từ nước Ma-kiệt-đà phương Nam về thăm cố hương. Trên từ vua Tịnh Phạn, dưới đến nhân dân dòng họ Thích, đều ra ngoài thành nghinh đón Phật, chỉ có Da-Du-đà-la và La-hầu-la không tham dự trong hàng người ấy.

Trong tâm bà Da-du nghĩ thầm "Khi Ngài đi xuất gia, ta đã vì Ngài chịu hết mọi nỗi khổ, Ngài mặc y phục bạc màu, ta ở trong cung cũng mặc giống Ngài, ta nghe Ngài tu khổ hạnh ăn một ngày một bữa, ta cũng tập làm theo. Ta đối với Ngài như vậy, thật hết lòng. Nếu Ngài còn nghĩ đến ta, tự nhiên sẽ đến cung thăm ta".

Mười năm không gặp Phật, lòng Da-du-đà-la cũng như mọi người đều muốn diện kiến Ngài, nhưng vì lễ phép, vì tự tôn bà phải nhẫn nại. Bà ngồi trên lầu cao nhìn ra, sẽ thấy được cảnh mọi người nghinh đón đức Phật.

Cậu bé La-hầu-la lên mười đến nói với mẹ:

- Mẹ mẹ, cha con đã về. Bà nội biểu con cho mẹ hay.

La-hầu-la ngây thơ, lúc ấy nào hiểu được tâm sự của mẫu thân. Cậu chỉ thấy mẹ của mình hôm nay sao nghiêm nghị quá, nhưng dù sao cậu cũng là con yêu, nên lại ngây ngô hỏi:

- Mẹ mẹ! Mẹ coi người ta ở ngoài cung điện nhiều biết bao nhiêu. Cha con nhất định cũng ở trong đó, cha con ra sao?

Câu nói từ miệng cậu bé, không biết hình dáng cha mình ra sao, càng khiến Da-du-đà-la thương tâm, nỗi lòng của người lớn, trẻ con hoàn toàn không thể biết.

Bà Da-du một tay kéo La-hầu-la bên mình, chỉ ra cửa, mắt rướm lệ nói:

- Con nhìn xem! Trong số các thầy Sa-môn kia người nào có vẻ trang nghiêm nhất chính là phụ thân của con.

La-hầu-la mở to đôi mắt, nhìn theo tay mẹ.

- Con chẳng nhận được phụ thân đâu. Con chỉ biết có ông nội, còn người nữa là mẹ mẹ yêu quý thôi.

Một giọt nước mắt của bà rơi xuống mái tóc La-hầu-la. Bà nắm tay con trở lui vào cung.

Xa cách mười năm, hôm nay Da-du-đà-la mới thấy lại đức Phật một lần. Mười năm không tin tức thoáng qua như một giấc mộng. Trong tâm tư của bà, như mặt nước yên tĩnh bị ném trúng một viên đá, những gợn sóng lao xao. Đức Phật biết tâm tưởng bà, nên dắt Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào cung thăm viếng.

Cuộc gặp gỡ giữa một đấng Chánh giác và một vị vương phi mỹ lệ khiến lắm kẻ lưu ý. Đức Thế Tôn trang nghiêm, im lặng một chút, từ bi thương xót nhìn Da-du-đà-la đang quỳ dưới chân, La-hầu-la quỳ bên cạnh. Da-du trăm mối ngổn ngang bên lòng, xúc động rơi nước mắt, bà cũng biết giữa đức Phật và bà có một sự ngăn cách không thể vượt qua. Đợi cho Da-du bình tĩnh lại, đức Thế Tôn mới chậm rãi nói với bà:

- Để cho nàng chịu nhiều tân khổ, tuy đó là sự thiếu sót của ta, nhưng ta đã vì tất cả chúng sanh mà ra đi. Hôm nay, ta đã đạt được bổn nguyện của ta trong nhiều kiếp, nàng hãy hoan hỷ cùng với ta.

Đức Phật nói xong, lại nhìn sang La-hầu-la, từ hòa vỗ về cậu bé:

- Thật mau quá, con đã lớn như thế ư!

Đức Phật dường như rất vô tình mà cũng dường như rất tình cảm. Thái độ của Ngài, lời nói của Ngài, đã khai thị cho Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, nghe xong tưởng chừng như phải khóc một trận mới hả.

La-hầu-la, bấy giờ chẳng biết phải gọi phụ thân của mình như thế nào. Xưng hô là cha cha ư? Đấy là một bậc Thánh trang nghiêm, tự miệng cậu bé chẳng dám gọi như thế. Xưng hô là Phật-đà, chẳng biết trúng hay không. Nhìn bao nhiêu vị Tỳ-kheo, Sa-môn đi theo đức Phật, trong tâm cậu bé thông minh ấy đã khởi nghĩ: “Đức Phật chẳng phải là phụ thân của một mình ta, Phật là bậc đại từ phụ của tất cả chúng sanh!”

Chỉ có mười tuổi, đã chịu nguyện đem phụ thân của riêng mình hiến cho chúng sanh làm đấng cha lành, thật là một cậu bé chẳng tầm thường.

3- SA-DI ĐẦU TIÊN

Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày, và phen này, trong cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có một ngàn vị Tỳ-kheo theo Phật. Cung điện hoàng gia tạm thời trở thành Tăng phòng tinh xá.

Đức Thế Tôn biết các thầy Tỳ-kheo sơ học, nếu ở lâu trong vương cung, dễ sanh tâm so sánh với lối sống đạm bạc của Tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau, Ngài đưa đại chúng về trụ tại rừng Ni-câu-đà ở cách thành Ca-tỳ-la không xa.

Tuy ở Ni-câu-đà, nhưng đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì bát khất thực hoặc thuyết pháp. Cậu bé La-hầu-la, ngây thơ một cách dễ thương, thân mật nói với Ngài:

- Phật-đà! Con rất thích được ở chung với Ngài.

Câu nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm, đức Thế Tôn cũng trả lời:

- Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên ta.

Phật nói câu ấy không lâu, quả nhiên La-hầu-la xuất gia theo luôn bên Ngài.

Nguyên nhân là vì Da-du-đà-la thường khuyến khích La-hầu-la thêm hoạt bát lanh lẹ, mặc quần áo đẹp cho và bảo con rằng:

- Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy!

Do đó, La-hầu-la thường chạy theo đức Phật nói:

- Phật-đà! Cho con gia tài!

Một hôm, đang lúc đức Thế Tôn khất thực trở về rừng Ni-câu-đà, Ngài đi trước, La-hầu-la chạy theo sau, chẳng có ai ngăn cản cậu, cậu cứ lẽo đẽo theo sau

Phật kêu:

- Cho con gia tài a! Cho con gia tài a!

Da-du-đà-la nhìn thấy đứa con duy nhất đi sau lưng Phật, rất sợ La-hầu-la bị đưa xuất gia, bất giác rơi nước mắt.

Đức Phật về đến rừng, gọi Xá-lợi-phất đến nói:

- Xá-lợi-phất! Cậu bé La-hầu-la cứ theo ta xin gia tài, ta không muốn cho y thứ tài sản và hạnh phúc mong manh, ta muốn cho y bảo bối vô giá. Này Xá-lợi-phất! Ông hãy cho y xuất gia, làm Sa-di đầu tiên của Tăng đoàn!

Đức Phật nói xong, gọi Mục-kiền-liên cạo tóc cho cậu bé, dạy lễ bái Xá-lợi-phất làm thầy, truyền giới Sa-di cho La-hầu-la, đó là khởi nguyên của chúng Sa-di.
La-hầu-la vốn là tất cả hoài bảo của bà Da-du-đà-la, bây giờ đã gia nhập Tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là Thái tử hạ sanh La-hầu-la, Ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả, thì vương vị mai sau của nước Ca-tỳ-la-vệ nhất định sẽ về tay La-hầu-la. Nhưng chủ trương của đức Phật, để cho một đứa bé con làm chủ cả bàn dân thiên hạ là chuyện không thể được, cho nên thừa cơ hội, Ngài phương tiện cho con xuất gia.

La-hầu-la xuất gia là một điều đau buồn cho bà Da-du. Cậu bé là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình. Thái tử đã ra đi, bây giờ con yêu cũng lìa bỏ, đối với bà thật là trời sầu đất thảm. Chúng ta cũng có thể đồng ý với bà Da-du trách đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng chơn lý và nhân tình là hai lối trái ngược nhau rất xa, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân, mới khế hợp được với chơn lý pháp tánh vậy.

4- TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM

La-hầu-la xuất gia làm Sa-di rồi, vương phi Da-du cũng đành chịu, không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm cho nỗi khổ tâm của bà, bèn đến tìm Phật, yêu cầu một điểm:

- Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài quy định từ nay về sau, các người trẻ tuổi muốn xuất gia phải được sự đồng ý cho phép của cha mẹ.

Đức Phật hoan hỷ nhận lời.

Da-du-đà-la chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời này, tất cả đều khô héo. Về sau, Di mẫu của Phật là phu nhân Kiều-đàm-di xuất gia làm Tỳ-kheo ni, Da-du cũng theo đoàn người nữ họ Thích đến Tỳ-xá-ly xuất gia. Ban đầu, bà không cảm thấy chút gì an lạc khi sống trong Tăng đoàn vắng lặng. Nhưng nhờ đức Thế Tôn cảm hóa, chẳng bao lâu, bà được khai ngộ, khôi phục lại niềm vui, cùng sinh hoạt bình thường, an ổn tự tại trong Phật pháp. Bà rất vui mừng, rất cảm kích đức Thế Tôn. Đức Phật cũng hoan hỷ, đến lúc ấy Ngài mới hết trách nhiệm với bà.

Chú Sa-di La-hầu-la còn quá nhỏ, không thể bắt buộc tu hành giống như người lớn được. Ít lâu sau, khi Tăng đoàn có chế độ Sa-di, Xá-lợi-phất cũng thâu một chú nhỏ là Sa-di Quân-đầu, và hai chú bé thường chơi chung với nhau. Lúc vắng người, cả hai cùng bày những trò chơi trẻ con để đùa nghịch.

Một cậu bé mới trên mười tuổi, mỗi ngày sống trong Tăng đoàn nghiêm túc, nếu như đó là ý nguyện của chú bé thì không nói chi, như nếu vì hoàn cảnh ép buộc, thì tâm lý sẽ có nhiều thay đổi. La-hầu-la xuất gia không thấy Tăng đoàn vui vẻ gì, chỉ ngoài mặt không lộ nét bực bội. Một thiếu niên khoảng trên mười lăm tuổi, đối với sự chỉ dạy của người lớn tự nhiên là vâng theo, nhưng dưới khoảng tuổi ấy, theo bản năng tự nhiên của cậu, sẽ có những bất mãn, những tư tưởng phản kháng lại. Khi La-hầu-la được mười bảy, mười tám tuổi tánh tình rất ôn hòa, rất nhiệt tâm trong công tác. Nhưng vào những năm ban sơ tuổi nhỏ, La-hầu-la cũng như bao trẻ con khác, ưa dối gạt người.

Lúc ấy La-hầu-la ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương Xá, có nhiều quan đại thần, trưởng giả, cư sĩ đến hỏi thăm đức Thế Tôn hiện ở đâu. Cậu thường tìm cách nói gạt để trêu ghẹo mọi người. Nếu đức Phật đang ở tinh xá Trúc Lâm, thì La-hầu-la lại nói Ngài ở núi Kỳ-xà-quật. Đức Phật ở tại Kỳ-xà-quật thì cậu nói gạt rằng Phật ở tinh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách xa nhau khoảng hai dặm, khiến thiên hạ cứ đi tới đi lui mệt đừ, mà rốt cuộc không gặp được Phật. Khi họ thất vọng quay về, La-hầu-la còn cười nhạo:

- Các ông không gặp được Phật sao?

- Đại đức! Ngài còn cười nhạo bọn tôi nữa ư?

- Ai trêu chọc các ông? Tôi lo cho các ông thôi chứ.

Cậu bé La-hầu-la nghịch ngợm không bao giờ nhận lỗi của mình.

Con nhà giàu có, thế lực thì hay ỷ lại vào tiền của và địa vị của cha mẹ, ưa làm chuyện bậy bạ. La-hầu-la vốn là cháu vua Tịnh Phạn, con Phật, tuy xuất gia trong Tăng đoàn bình đẳng nhưng vẫn là con nít, chắc cũng được nhiều người sủng ái, nên theo ý tôi, cậu bé có những tập khí kiêu mạn, cũng là tâm lý chung.

La-hầu-la gạt mọi người một lần, hai lần, thiên hạ còn bị lầm, nhưng sau vài lần mọi người đều biết, và tiếng đồn La-hầu-la nói dối, chọc ghẹo người đến tai Phật. Đức Thế Tôn không vui chút nào. Một hôm Ngài đích thân đến rừng Ôn Tuyền, răn dạy La-hầu-la một phen.

5- LỜI RĂN CỦA PHẬT

Hôm ấy, đức Thế Tôn đến chỗ ở của La-hầu-la, với dáng hết sức oai nghiêm. La-hầu-la không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời, rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu bảo La-hầu-la:

- Này La-hầu-la! Thứ nước dơ bẩn này có đem uống được không?

- Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ, không thể uống được.

- Ông cũng giống thứ nước đó! – Đức Thế Tôn quở – Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên cáu bẩn, giống như ông vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian, xuất gia làm Sa-môn, tuy chưa thọ giới Tỳ-kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa-di. Ông không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói, dối gạt chọc ghẹo người, cấu uế của tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước trong sạch bị dơ bẩn một thứ.

Chưa bao giờ đức Thế Tôn nghiêm nghị như vậy. La-hầu-la cúi đầu chẳng dám ngó Phật. Đức Phật bảo đem nước đổ đi, cậu bé mới nhúc nhích. Đợi La-hầu-la đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:

- La-hầu-la! Ông lấy cái chậu này đựng cơm được không?

- Bạch Thế Tôn! Chậu đựng nước rửa chân không thể đem đựng cơm, vì chậu đã dơ, đầy cáu ghét không thể đựng thức ăn được!

- Ông cũng giống cái chậu đó. Tuy làm Sa-môn thanh tịnh mà không tu giới định huệ, thân khẩu ý không thanh tịnh, chứa đầy cấu uế không chân thật, thức ăn đạo lý làm sao nhét vào tâm ông?

Phật nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng, La-hầu-la thấy thế hoảng sợ. Phật lại hỏi:

- La-hầu-la! Ông sợ cái chậu này bị đá bể không?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ. Chậu rửa chân là đồ vật xấu, có bể cũng chẳng sao.

- La-hầu-la! Ông không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến ông. Ông xuất gia làm Sa-môn, không giữ oai nghi, nói dối đùa ghẹo, ai mà thương ông được. Không ai quý tiếc gì ông, cho đến lúc ông chết mà ông không hối cải, lại càng chìm trong mê mờ.

La-hầu-la sợ toát mồ hôi, xấu hổ muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh.

Đức Phật răn dạy xong, lại nói thêm một ví dụ cho La-hầu-la nghe:

- Đời quá khứ, có một quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận, lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều có dao sáng ngời, sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ nhược, nếu để trúng tên liền chết ngay, vì muốn giữ gìn mạng sống phải giữ kỹ chiếc vòi.

La-hầu-la! Ông cũng phải như voi kia giữ kỹ cái vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói, mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương, huệ mạng của ông sẽ mất, không được mọi người thương mến, không được người trí ưa thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường khổ.

Đức Thế Tôn dùng hết tình hết lý, khẩn thiết, nghiêm trang răn dạy, mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La-hầu-la, chú bé phát nguyện từ nay sẽ sửa đổi.

Như hạt lúa chúng ta tuy xay giã thành hạt gạo, nhưng còn dính bụi cám, phải vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng. La-hầu-la tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có pháp thủy của đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được.

Từ đó La-hầu-la trở thành một người khác.

6- SA-DI CÓ THỂ Ở CHUNG VỚI TỲ-KHEO

Khi đức Thế Tôn ở tại vườn Cù-sư-la, La-hầu-la cũng ở đó với Sa-di Quân-đầu, cũng theo sư phụ Xá-lợi-phất hầu Phật nghe pháp.

Mỗi ngày, La-hầu-la dậy sớm quét dọn trong vườn, trong ngoài sạch sẽ rồi mới tu tập theo lời Phật dạy. Một khu vườn rộng lớn, quét dọn cho sạch hết phải tốn biết bao thì giờ. Hôm nọ, La-hầu-la quét dọn xong bèn đi nghe Phật thuyết pháp, đến chiều mới trở về phòng. Lúc ấy phòng của La-hầu-la bị thầy Tỳ-kheo quản lý để cho một vị Tỳ-kheo khách ở, những y bát tọa cụ của La-hầu-la đều bị bỏ ở ngoài, khách thì an nhiên ở trong phòng.

Phật đã quy định một người một phòng, phòng của mình đã bị người khác chiếm, biết làm sao? Hơn nữa La-hầu-la còn là Sa-di, trong Tăng đoàn Sa-di phải kính trọng Tỳ-kheo, và Phật cũng dạy phải nhẫn nại, nên La-hầu-la không dám đến hỏi thầy kia sao lại ở phòng mình. La-hầu-la đứng ngơ ngơ ở ngoài cửa thật là tiến thối lưỡng nan. Lúc ấy mây đen kéo đến đầy trời, báo hiệu sắp có mưa to, La-hầu-la không biết núp vào chỗ nào, bèn chui vào nhà xí, tuy có hôi hám thật, nhưng chỉ còn cách ngồi trong đó thôi. Lúc ấy thật cảm thấy nỗi quạnh quẽ của tình cảnh không nhà. La-hầu-la đang tọa trong nhà xí, nỗ lực nhớ đến lời Phật dạy, bất cứ trong hoàn cảnh khốn khổ nào, bất cứ gặp những phiền phức gì, đều không nên khởi tâm oán hận. Sức tu của La-hầu-la quả thật tiến bộ rất nhiều.

Bên ngoài mưa tuôn xối xả, nước chảy tràn xuống những chỗ trũng, có một con rắn đen ở trong hang bên cạnh, bị ngập nước bèn bò ra, dần dần bò vào nhà xí. Rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm, mà La-hầu-la không hề để ý, lúc ấy sinh mạng của chú như chỉ mành treo chuông.

Đức Phật đang ở trong thất, hốt nhiên nhớ đến La-hầu-la, Ngài dùng thiên nhãn thấy được sự nguy hiểm gần kề, bèn đi ra nhà xí, đằng hắng một tiếng, bên trong cũng có tiếng đằng hắng. Phật bèn hỏi:

- Ai ở trong đó?

- Dạ! La-hầu-la!

- Ra mau! Ta bảo ông đi ra!

La-hầu-la không ngờ đức Thế Tôn đã kêu mình, vội bước ra, bất giác quỳ bên chân Phật, nước mắt đoanh tròng. La-hầu-la còn nhỏ, tình cảm không khỏi yếu ớt.

Phật bèn hỏi vì sao La-hầu-la lại ngồi trong nhà xí. La-hầu-la thuật lại mọi việc. Phật bèn dạy La-hầu-la hãy vào trong phòng Ngài. La-hầu-la vui mừng, như từ địa ngục mà bước lên thiên đường.

Trẻ con tuổi nhỏ, cắt ái từ thân, vào trong Tăng đoàn, cần phải được các Tỳ-kheo lớn chiếu cố đến. Vì nhân duyên đó, đức Phật bèn quy định cho các Sa-di, có thể ngủ chung phòng với Tỳ-kheo hai đêm. Tình thương của đức Phật, chỗ vi tế nhất đều lưu ý đến.

Xưa nay, sư phụ thâu đệ tử phải có trách nhiệm dạy dỗ. Thầy của La-hầu-la là Xá-lợi-phất, thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài, ít có dịp ngó ngàng đến La-hầu-la. Nhưng từ khi sự kiện ấy xảy ra, Xá-lợi-phất thường gọi La-hầu-la đến ở một phòng với Tôn giả.

7- ĐỨC NHẪN NHỤC

Từ khi được đức Phật chỉ dạy, và lại thường được ở bên cạnh sư phụ Xá-lợi-phất, nhận được sự hướng dẫn của thầy, La-hầu-la tu tiến rất nhanh.

Khi đức Phật giảng kinh, Xá-lợi-phất đều dẫn La-hầu-la đi nghe. Khi Xá-lợi-phất tịnh tọa, La-hầu-la cũng tịnh tọa một bên, khi đi thuyết pháp giáo hóa, Xá-lợi-phất cũng dắt theo bên mình, dạy cho La-hầu-la những kinh nghiệm vì pháp, vì mọi người. Mỗi ngày khất thực xong, La-hầu-la lại theo sau Xá-lợi-phất, trong Tăng đoàn Tôn giả được xem như đức Phật thứ hai, thật là ân sư tôn quý của La-hầu-la.

Một hôm, La-hầu-la đi theo Xá-lợi-phất khất thực tại thành Vương Xá. Trên đường đi gặp một tên lưu manh, hắn lấy cát ném vào bát Xá-lợi-phất, và lấy gậy đánh trên đầu La-hầu-la.

La-hầu-la bị thương, máu nhỏ giọt xuống y. Tên lưu manh thấy vậy chẳng những không biết lỗi, còn chửi:

- Mấy lão trọc, chỉ biết đi xin ăn, cứ xưng là từ bi nhẫn nhục, ta đánh lỗ đầu mày, thử xem làm gì ta.

La-hầu-la lúc ấy mười tám tuổi, đã lộ vẻ tức giận căm gan, nhưng Xá-lợi-phất an ủi:

- La-hầu-la! Nếu thật là đệ tử Phật, cần phải có tinh thần nhẫn nhục, trong tâm không chứa niềm sân hận, phải đem lòng từ bi thương xót chúng sanh. Đức Phật thường dạy chúng ta, lúc vinh dự đừng sanh lòng cao hứng, khi bị làm nhục cũng đừng oán hận. Này La-hầu-la! Nên điều phục tâm giận tức, giữ chắc nhẫn nại. Trên thế gian không có gì sánh bằng người có sức nhẫn mạnh mẽ, cõi trời cõi người, dù sức mạnh đến đâu cũng không hơn nhẫn nại.

La-hầu-la nghe Xá-lợi-phất khai thị, lẳng lặng đến bên ao nước, mặt nước soi rõ bóng dáng, La-hầu-la lấy tay khoát nước rửa sạch vết thương, xé một chút vải băng lại. Xá-lợi-phất theo dõi tình hình, trong lòng vừa an ổn vừa thương tình.

La-hầu-la nhẫn nại, an nhiên theo Xá-lợi-phất, khất thực xong, trên đường về mới nói với thầy:

- Con nghĩ đến vết thương trên đầu, lúc ấy khó mà bỏ qua. Nhưng trên thế gian này sao lắm kẻ hung ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng chán. Con không giận đời, chỉ nghĩ đến cái cõi đời này nhiều người không biết điều. Đức Phật dạy chúng ta nên có lòng đại từ đại bi với họ, để mặc hạng người cuồng bạo nhục mạ chúng ta. Sa-môn Tỳ-kheo giữ hạnh nhẫn, chứa đức cao mà người cuồng ngu trở lại khinh chê, lại đi kính trọng mấy kẻ hung dữ độc ác. Đức Phật dạy chân lý từ bi, họ trở lại cho là hôi như xác chết, như trời mưa cam lồ mà loài chó hoang lại chỉ ưa đồ dơ bẩn, ưa những nơi hôi hám. Những chơn lý Phật dạy, những lời nói từ bi của Ngài mà đem nói với những hạng người hung dữ, không có chút căn lành ấy, chẳng có hiệu quả gì.

Đây là lần đầu tiên La-hầu-la đem việc tu hành và ý nghĩ của mình bày tỏ với sư phụ. Xá-lợi-phất nghe xong rất hoan hỷ, đem những lời của La-hầu-la về bạch với Phật. Phật cũng rất vừa lòng, khen La-hầu-la ngày nay rất ngoan, đối với người hung ác nên có thái độ như thế, và cách nhìn đời cũng biết như vậy. Phật lại dạy thêm:

- Người không biết nhẫn, sẽ không tiếp thọ được Phật pháp, giận đời oán người là trái với pháp, xa chư Tăng, thường luân hồi trong đường ác. Hạnh nhẫn nhục mới là hạnh an ổn, mới có thể tiêu trừ tai nạn. Người Trí tuệ thấy được nhân quả sâu xa, khắc phục tâm sân hận, thường hành nhẫn nại. Tinh thần của Phật pháp, chân nghĩa của Phật pháp không giống như lối nhìn của người đời. Những gì thế gian cho là cao quý thì Phật pháp cho là hạ tiện, Phật pháp cho là tốt, là phải thì người đời không chịu làm theo. Trung không ưa nịnh, tà chẳng thích chánh, ác không thích đi chung với thiện. Người tham dục thì ghét người vô dục. Trong tình cảnh ấy, người tu hành chỉ có việc nhẫn nại. Nhẫn là duyên trợ đạo tốt nhất, có thể khiến người tu mau chứng Thánh quả. Nhẫn như thuyền bè trên sông biển, có thể vượt qua mọi sóng gió, nhẫn là thuốc lành trị bệnh, cứu mạng sống cho người trong cơn nguy. Tu thành Chánh giác, vượt qua ba cõi, được trời người kính ngưỡng, là vì tâm ta đủ sức an ổn, phải biết rằng đức nhẫn rất quý vậy.

Do nhân duyên La-hầu-la bị kẻ côn đồ vô cớ hành hung lỗ đầu, mà trong lúc tuổi trẻ máu nóng lại có thể nhẫn chịu như một ông thánh, khiến sư phụ rất an tâm, đức Phật cũng mừng thầm và dẫn khởi đến đoạn thuyết pháp trên. Xá-lợi-phất nghe xong vô cùng cảm động, La-hầu-la cũng rơi lệ, lại càng cảm kích hơn.

8- LỊCH TRÌNH CHỨNG NGỘ

La-hầu-la đối với chuyện bị chiếm phòng, tự nguyện nhượng bộ, trên đường đi bị kẻ ác đánh trọng thương đều có thể nhẫn được, tu dưỡng cẩn mật như vậy, chỉ còn một đoạn nữa là được khai ngộ.

La-hầu-la thông minh khéo léo, tinh tấn tu hành, khi còn Sa-di ưa chọc ghẹo thiên ha,ï hôm nay đã trở thành một thầy Sa-môn nghi biểu trang nghiêm. Vào năm hai mươi tuổi, đức Phật hứa khả cho thọ giới Tỳ-kheo.

Tuy còn trẻ nhưng La-hầu-la đạo mạo như một người lão thành. Những cuộc nhóm họp đông đảo trong sinh hoạt của Tăng đoàn, thầy ít khi tham dự, chỉ im lặng dụng công tu tập.

Thiệt là chẳng biết La-hầu-la dụng công thế nào mà chưa được khai ngộ. Nguyên nhân chính là thầy chưa quên được cái vinh dự lớn của mình. Dù sao thầy cũng là con yêu của đức Phật, là cháu cưng của vua Tịnh Phạn. Trừ những bậc thượng thủ ra, các Tỳ-kheo khác đều kính trọng thầy, ái mộ thầy, khen ngợi thầy. Được nghe luôn những lời khen tặng, các thầy tu trẻ rất dễ bị động tâm, mấy ngôn từ hoa mỹ ấy đáng sợ như ác ma, khiến cho La-hầu-la dụng công tinh tấn đến đâu cũng chưa đạt quả vị.

Thậm chí có thầy Tỳ-kheo đã hỏi Phật về chuyện khai ngộ của La-hầu-la:

- Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo La-hầu-la nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ, vì muốn cầu khai ngộ, thầy đã tận tình buông sạch, vậy mà tại sao thầy vẫn chưa đoạn trừ hết phiền não, giải thoát hoàn toàn?

Đức Thế Tôn trả lời dứt khoát:

- Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh, nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm, nhất định dần dần chứng quả.

Đối với việc La-hầu-la chưa khai ngộ, đức Phật không mấy bận lòng, Ngài vẫn đầy tin tưởng, đợi ngày ấy sẽ đến.

Mấy phen dường như khai ngộ mà vẫn chưa khai ngộ, La-hầu-la đem chỗ tâm đắc của mình bạch với Phật. Phật dạy La-hầu-la từ đây về sau nên thường cùng bạn bè đàm luận về đạo lý ngũ uẩn hòa hợp, và tự mình nên tư duy về ngã mạn, pháp vô ngã, pháp khổ, pháp vui v.v…

Một ngày nọ, vào sáng sớm, đức Phật cùng với La-hầu-la đi ra khỏi tinh xá Kỳ Viên, vào thành Xá-vệ khất thực. Trên đường đi, Phật quay lại bảo La-hầu-la:

- La-hầu-la! Ông hãy quan sát sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Ông xem thân tâm của mọi người và tất cả sự vật trên thế gian đều nên khởi quán vô thường, không nên chấp trước.

La-hầu-la nghe vài câu nói đơn giản như thế, tâm địa hốt nhiên sáng tỏ. Tôn giả cáo biệt Phật, ngưng việc khất thực trở về tinh xá, ngồi kiết già một lòng suy nghĩ về ý nghĩa thâm thúy của lời dạy đó. Tôn giả lại dùng từ bi quán trừ tâm sân hận, dùng bất tịnh quán trừ tâm tham dục, dùng sổ tức quán trừ tâm tán loạn, dùng Trí tuệ đối trị ngu si. Tôn giả vào sâu trong thiền định và cơ duyên đã chín muồi, Tôn giả khai ngộ ngay hôm ấy.

Đức Thế Tôn khất thực trở về đến chỗ La-hầu-la đang tọa thiền, lại chỉ dạy thêm:

- Nên dùng sức đồng thể đại bi, lòng từ vô duyên để đối xử với người và sự việc, tâm lượng rỗng rang có thể dung nạp tất cả chúng sanh, mới có thể diệt ác, đếm hơi thở quán tâm, có thể đạt được giải thoát.

La-hầu-la từ tòa đứng dậy, đảnh lễ đức Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Phiền não con đã hết, con đã chứng ngộ xong.

Đức Phật hoan hỷ, còn hơn sự hoan hỷ của La-hầu-la, Ngài khen ngợi:

- Trong các đệ tử ta, Tỳ-kheo La-hầu-la là Mật hạnh đệ nhất .

Gọi là mật hạnh, nghĩa là trong ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, La-hầu-la đều biết hết, đều có thể làm hết.

Nghĩ đến hồi ban đầu, La-hầu-la theo Phật xin gia tài, hiện tại Tôn giả chứng ngộ là đã được đức Phật trao cho pháp tài vô tận. Nghĩ đến thuở còn Sa-di nhỏ tuổi gia nhập Tăng đoàn, đã làm bận lòng đức Phật không biết bao nhiêu, hiện tại Tôn giả đã xa lìa mọi dục lạc thế gian, đạt được niềm vui chơn chánh của pháp mầu. Thật là vinh hạnh cho Tôn giả.

9- CHẾ ĐỘ HIẾN CÚNG TINH XÁ

Sau khi La-hầu-la khai ngộ, địa vị trong giáo đoàn càng được đề cao, nhất là hàng tín chúng tại gia, có biệt nhãn đối với Tôn giả. Một điều không thể phủ nhận, trong hàng Tỳ-kheo, La-hầu-la được cúng dường nhiều nhất.

Vấn đề cúng dường nếu nồng hậu, vật chất đầy đủ sẽ làm chướng ngại việc tu đạo. Nhưng La-hầu-la đã chứng Thánh quả, những thứ bên ngoài không làm hệ lụy được. Hễ vừa có dư một vật gì, Tôn giả đều đem cho người khác.

Một hôm, Phật đang thuyết pháp tại một thôn làng trong nước Ca-tỳ-la, có một trưởng giả tin Phật và xin quy y. Ông trưởng giả này, có duyên với La-hầu-la, hay là vì quan niệm về địa phương, La-hầu-la cũng người Ca-tỳ-la, ông phát tâm hộ pháp cho Tôn giả tất cả những thứ cần dùng, ông đều cung cấp đầy đủ.

Về sau, ông đặc biệt cất một tinh xá cúng riêng cho La-hầu-la, tôn giả cũng an trụ ở đó. Lúc ấy các Tỳ-kheo đi hành khước rất đông, nên tinh xá của La-hầu-la luôn luôn có khách Tăng ghé lại. Nhà ông trưởng giả cứ nghĩ là tinh xá của mình bố thí, lại hay can thiệp vào việc chùa. La-hầu-la thưa chuyện với Phật xin thỉnh ý phải làm sao? Phật dạy:

- La-hầu-la! Trong pháp ta, việc của Tăng đoàn thì hàng tín đồ tại gia không thể quản lý. Tín chúng phát tâm cúng dường tinh xá, không phải vì đó mà tự do can dự thao túng. Ông nên bảo cho ông trưởng giả ấy, hỏi ông ta cúng dường tinh xá với mục đích gì? Nếu thật là bố thí cho Tăng già, vật đã bố thí không còn là của mình. Như nếu ông ta muốn quản lý, nói cho ông ấy biết tinh xá không phải là nhà khách. Tinh xá do Tăng trụ trì, phần cư sĩ hộ pháp thì được, quản lý thì không được.

La-hầu-la đem lời đức Phật nói lại với trưởng giả. Thiệt là người không hiểu rành Phật pháp, bị quyền thế ám ảnh, hoặc quá nhiệt tình mà chấp chặt, bảo ông đừng xen vào chuyện tinh xá, ông không thể hoàn toàn xả bỏ được. Từ đó cảm tình giữa La-hầu-la và ông bị sứt mẻ, lúc trước ông kính trọng tôn giả, bây giờ ông lại thấy bực bội, gai mắt.

Một hôm, La-hầu-la có chút việc đi đến thành Xá-vệ, đúng lúc ấy trưởng giả đến thăm tinh xá. Thấy không có ai, vắng bóng tôn giả, thừa cơ hội ấy, ông bèn đem tinh xá cúng dường cho thầy Tỳ-kheo khác.

Tín đồ tại gia mà ăn nói ngược ngạo như vậy thật là trái lẽ. Khi La-hầu-la xong việc trở về, thì tinh xá đã thuộc về người khác, tôn giả bèn trở lại tinh xá Kỳ Hoàn. Đức Phật hỏi tôn giả vì sao trở về cấp tốc như vậy, La-hầu-la trình bày mọi việc. Đức Phật nghe xong chẳng bằng lòng với thái độ của nhà ông trưởng giả nọ. Ngài cảm khái cho những người không hiểu sâu Phật pháp mà bảo họ làm đúng Phật pháp thiệt là khó thay!

Phật liền triệu tập các Tỳ-kheo:

- Vật nào đã bố thí cho người, mà thí chủ lại đem tặng lại các ông, các ông không được tiếp nhận.

Đó không phải là đức Phật thiên vị La-hầu-la, mà vì pháp tắc trong giáo đoàn, để tránh những rắc rối về sau. Đáng buồn cho lời dạy của Ngài, Phật giáo ngày nay xảy ra những việc tranh chấp về tài sản, đều là vì những nguyên nhân ấy.

Khi La-hầu-la còn làm Sa-di, phòng thất bị người chiếm đoạt, bèn vào nhà xí tránh gió mưa, không vì chỗ ở mà tranh chấp với người. Bây giờ là một vị Tỳ-kheo khai ngộ, được tặng cho tinh xá, rồi tinh xá ấy lại bị đem tặng người khác, trong tâm lượng khoáng đạt của bậc thánh ấy không hề có niệm bất bình. Đến khi đức Phật quy định chế độ cúng dường tinh xá, chúng ta lại có dịp nhắc lại chuyện xưa.

10- NHẬP DIỆT

Những nhân vật oanh liệt trong Tăng đoàn thuở ấy là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-nan v.v… còn La-hầu-la thì không, một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới, chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian. Hoặc là vì La-hầu-la quan hệ đến đức Thế Tôn, nên Ngài đặc biệt hạn chế tôn giả. Chúng ta cũng biết La-hầu-la có tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng chúng ta cũng thấy trong sinh hoạt của một vị Tỳ-kheo Tôn giả không phải là người sôi nổi.

Cho nên trong kinh sử không thấy ghi lại những sự tích La-hầu-la nhiệt tình thuyết pháp, hay nghị luận với ngoại đạo. Đúng như lời đức Thế Tôn nói, Tôn giả là người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật, là một vị Mật hạnh đệ nhất .

La-hầu-la nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của Tôn giả, có hai truyền thuyết. Có thuyết nói, thái tử Tất-đạt-đa năm mười chín tuổi hạ sanh La-hầu-la. Có thuyết lại nói đến năm Ngài hai mươi lăm tuổi mới hạ sanh La-hầu-la. Về năm diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết-bàn trước đức Phật vài năm, thuyết khác nói, khi đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả còn quỳ bên giường.

Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta cũng không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyễn hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật cũng có ít nhiều cắt xén.

Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển, thì Tỳ-kheo ni Da-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu-la nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, và La-hầu-la nhập diệt được kể là sớm hơn.

Vào một buổi chiều, Da-du-đà-la đã suy tư đến rất nhiều sự việc. Bà nghĩ Kiều-đàm-di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết-bàn, La-hầu-la cũng nhập Niết-bàn. Ta sanh đồng một năm với đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói đức Phật sẽ nhập Niết-bàn vào năm tám mươi tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với Ngài, tuy hiện tại đối với đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng gì khác, nhưng chuyện ấy là một điều bất kính, chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn.

Da-du-đà-la được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi. Và đêm đó bà ở trong phòng nhập định Niết-bàn.

Căn cứ vào ký sự nhập diệt của Da-du-đà-la thì La-hầu-la đã nhập diệt trước cả bà và đức Phật. Và theo đó, tính tuổi của Tôn giả không quá sáu mươi. Đại khái Tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng.

Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết, dù sớm hay muộn cũng là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong lý thể pháp tánh, chuyện ấy không có gì phải buồn, trái lại đó là một sự hạnh phúc.

La-hầu-la vào năm hai mươi tuổi đã khai ngộ chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã đạt được thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên vi tiếu mà ra đi.

Ưu Ba Ly


ƯU BA LY

TRÌ GIỚI ĐỆ NHẤT

1- XUẤT THÂN TỪ GIAI CẤP THỦ ĐÀ LA

Tôn giả Ưu-ba-ly được liệt kê trong số mười vị đại đệ tử của Phật, đối với giai cấp nghiêm khắc của xã hội Ấn Độ, không phải là chuyện dễ.

Ưu-ba-ly xuất thân từ dòng hạ tiện Thủ-đà-la, số mạng định sẵn là chỉ có làm nô bộc cho người. Ở cổ Ấn Độ, người sanh trong dòng Thủ-đà-la, ngay từ khi mới lọt lòng đã bị sự kỳ thị, bị xem như đồ phẩn uế không đáng nhìn tới.

Người Thủ-đà-la, nếu gặp hàng Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi trên đường đi, phải quỳ xuống bên đường nhường lối, nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt, còn nếu lý luận với hai hạng trên, thì sẽ bị cắt lưỡi. Thật đáng thương cho Ưu-ba-ly đã sanh ra trong dòng Thủ-đà-la nên phải chịu một kiếp sống bi thảm như vậy.

Tuổi thơ của Ưu-ba-ly được niềm an ủi duy nhất là tình thương của cha mẹ, lòng thương con thì dù ở giai cấp nào cũng chẳng kể mức độ cách biệt.

Từ nhỏ Ưu-ba-ly đã không được hưởng quyền lợi về học vấn. Người của dòng Thủ-đà-la mà muốn học tập pháp điển Mã-nổ của Bà-la-môn, là một vọng tưởng hão huyền.

Đến khi lớn khôn, cha mẹ Ưu-ba-ly nghĩ đến việc chọn cho con mình một nghề nghiệp để nuôi thân. Lúc ấy, những nghề như thương buôn hoặc công chức thì không cho phép người Thủ-đà-la tham dự. Hơn nữa, đã không được học hỏi mà đi làm công chức hoặc thương buôn làm sao được. Cha mẹ chàng đã biết con đường tương lai của con mình chỉ có chọn lựa trong các nghề nông dân, lao lực, nô lệ, chọn lấy một nghề để sinh nhai cho qua một kiếp tủi hèn.

Ban đầu, song thân chàng định cho chàng học nghề làm ruộng, nhưng sau nghĩ đến việc ruộng nương thiệt tân khổ, người cày cuốc cần phải có sức lực, mà Ưu-ba-ly bẩm chất vốn ốm yếu làm nghề đó sợ sống không lâu. Sau nữa, họ lại định cho chàng học nghề đánh xe, nhưng nghĩ lại dù làm kẻ chăn ngựa hay người đánh xe phải đi sớm về tối, bôn ba lao lực, nên lại thôi. Lòng của người làm cha mẹ muốn chọn cho Ưu-ba-ly một nghề thích hợp thiệt cũng lắm phen do dự.

Làm nô lệ cho người cần nhất là chọn được chủ nhân tử tế. Muốn vậy phải có nghề nghiệp chuyên môn. Và sau khi thương lượng đắn đo, họ bèn cho Ưu-ba-ly học nghề hớt tóc.

Ưu-ba-ly là một cậu bé học nghề rất dễ dạy, tánh tình khiêm tốn và có thói quen vâng lời, học các kỹ thuật hớt tóc, chải bới, chẳng bao lâu Ưu-ba-ly đã học thành thạo các kiểu cách thời trang, mọi thứ cắt tỉa, thủ thuật nghề nghiệp.

Ra nghề, song thân Ưu-ba-ly lại tìm người giới thiệu cho con, và Ưu-ba-ly được nhận vào vương cung Ca-tỳ-la để hớt tóc trang điểm cho các vương tôn công tử.

Tuy chỉ là một người thợ hớt tóc, nhưng tâm tánh của Ưu-ba-ly rất thuần lương, trung hậu. Rốt cuộc chàng được sự tín nhiệm của các vương tử, cho ở luôn tại hoàng cung để cắt tóc cho các tiểu vương tử. Các ông hoàng nhỏ như Bạt-đề, A-na-luật đều rất thích chàng thợ cạo Ưu-ba-ly. Bởi vì với lối cắt nhanh gọn, khéo léo, nhẹ nhàng không làm đau đầu, Ưu-ba-ly được mọi người ưa chuộng, và chàng cũng hết lòng kính trọng các vương tử.

2- CẠO TÓC CHO ĐỨC PHẬT

Vào khoảng gần hai mươi tuổi, Ưu-ba-ly đã là một người thợ hớt tóc lành nghề. Lúc ấy đức Phật thành đạo được ba năm, Ngài đã trở về cố hương Ca-tỳ-la. Đến ngày cạo tóc, mọi người bèn giới thiệu Ưu-ba-ly.

“Cạo tóc cho đức Phật!” Ưu-ba-ly nghe tin ấy rất lo sợ hoang mang. Chàng nghĩ đến đức Phật là bậc Đại giác, có ba mươi hai tướng tốt, nhất định đầu tóc của Ngài không giống người thường. Ưu-ba-ly nghĩ đến đó đã e ngại, rủi như lỡ tay xúc phạm đến đức Thế Tôn thì làm sao. Chàng trở về nhà nói hết tâm sự với mẹ. Vốn xuất thân từ dòng Thủ-đà-la đã mang nặng lòng tự ti từ lúc nhỏ, đức Thế Tôn là hàng vương tử thành Phật, chính chàng còn không dám nhìn đến gót chân của Ngài, làm sao dám cạo tóc?

Mẫu thân bèn an ủi Ưu-ba-ly, khuyên con đừng sợ, nghe đồn rằng đức Phật rất từ bi, thường thuyết pháp cho mọi người nghèo khổ. Đức Phật chắc chắn không có thành kiến như người đời, chắc chắn sẽ không khinh thị người Thủ-đà-la. Tuy nghe mẹ nói như vậy, nhưng Ưu-ba-ly vẫn không yên tâm. Mẹ chàng bèn bảo ngày mai bà sẽ cùng đi với Ưu-ba-ly đến chỗ Phật.

Thật cũng lạ đời, đã rành rẽ kỹ thuật hớt tóc mà khi đi làm phải có mẹ theo tiếp một bên. Qua câu chuyện này, chúng ta cũng thấy được cá tánh của Ưu-ba-ly.

Hôm sau, bà mẹ dẫn Ưu-ba-ly trước tiên đến bái kiến đức Phật và sau mới bảo cạo tóc cho Thế Tôn.

Ưu-ba-ly cẩn thận, chú ý từng chút, chậm rãi làm việc. Mẹ chàng đứng một bên theo dõi, một lúc sau bà quỳ trước mặt đức Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Kỹ thuật cạo tóc của Ưu-ba-ly ra sao?

Đức Phật chú ý nhìn Ưu-ba-ly một lúc rồi mới đáp:

- Thân thể rất cong.

Đại khái là do Ưu-ba-ly đối với Phật cung kính nên cúi khom lưng mà cạo tóc, không dám ngẩng lên. Chàng nghe Phật nói lại tập trung tâm ý, theo truyền thuyết thì lúc ấy chàng đã tấn nhập Sơ thiền. Một lúc sau, mẹ chàng lại quỳ xuống thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Lúc này Ưu-ba-ly cạo tóc thế nào?

Đức Phật lại đáp:

- Lúc này thân thể rất ngay thẳng.

Ưu-ba-ly nghe Phật nói, lại chẳng dám khởi vọng tưởng ngừng nghỉ, nhất tâm nhất ý và lúc đó chàng lại được công phu nhập Nhị thiền.

Chẳng bao lâu, mẹ chàng lại cung kính hỏi thăm:

- Kính bạch Thế Tôn! Bây giờ Ưu-ba-ly cạo tóc ra sao?

- Hơi thở vào quá thô! – Đức Phật đáp.

Ưu-ba-ly nghe nói liền tập trung tâm ý vào hơi thở, theo truyền thuyết, lúc đó chàng đã nhập đệ Tam thiền.

Sau cùng, mẹ chàng lại hỏi:

- Kính bạch Thế Tôn! Hiện tại Ưu-ba-ly cạo tóc thế nào?

- Hơi thở ra quá thô!

Lúc ấy, Ưu-ba-ly chẳng khởi một niệm, quên luôn con dao cạo trong tay, và theo truyền thuyết lúc đó chàng đã vào đệ Tứ thiền.

Đức Phật liền gọi vị Tỳ-kheo đứng gần:

- Ông đến lấy con dao trong tay của Ưu-ba-ly ra, chú ấy đã nhập Tứ thiền, không còn tưởng niệm gì cả, và cần một người đỡ giùm chú bé đừng cho té xuống đất.

Theo ký sự này, chúng ta có thể biết Ưu-ba-ly đã chú tâm đến mức nào trong công tác, mỗi lần nghe lời chỉ dạy của Phật đều sửa đổi thật đúng. Với bản chất ưa suy tư và tánh tình nghiêm túc, nên trong cuộc sống được nhiều người giúp đỡ, và ngay bản thân mình đã không để cho người gièm chê hoặc phê bình một lời. Do đó, về sau Ưu-ba-ly được tôn xưng là Trì giới bậc nhất, không phải không có lý do.

3- XUẤT GIA TRƯỚC LÀM SƯ HUYNH

Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ, khắp rưới mưa pháp trong hoàng cung. Những hạt giống Bồ-đề đã gặp duyên nẩy mầm tăng trưởng. Các vương tử dòng họ Thích nghe đức Thế Tôn thuyết pháp nhiều người phát tâm xuất gia theo Phật.

Trong số ấy có nhiều người được phụ mẫu cho phép, cũng có người phụ mẫu không tán thành, các hoàng thân này cùng hẹn nhau lén trốn đi, đến rừng Ni-câu-đà tìm đức Phật, xuất gia rồi sẽ báo tin cho hoàng gia biết sau.

Trong số bảy vương tử ấy có mặt Bạt-đề, A-nan và A-na-luật. Muốn xuất gia phải cạo bỏ râu tóc, các hoàng thân bắt buộc phải mang theo Ưu-ba-ly. Trong khu rừng gần kề tinh xá của Phật, dưới bóng cây rừng, khi Ưu-ba-ly cạo tóc cho vương tử Bạt-đề đã tuôn rơi từng giọt nước mắt. A-na-luật thấy thế mới dùng quyền vương gia mà trách hỏi Ưu-ba-ly:

- Ngươi thấy chúng ta xuất gia, đáng lý phải vui vẻ, tại sao lại khóc?

Ưu-ba-ly sợ sệt đáp:

- Thưa vương tử! Xin Ngài khoan thứ cho sự vô lễ của kẻ tiện dân. Vì vương tử Bạt-đề đã đối xử với hạ dân rất tử tế, hôm nay, Ngài đã xuất gia với các vương tử, xuất gia rồi kẻ hèn này không còn được gặp lại, nghĩ đến đó hạ dân không cầm được nước mắt. Xin vương tử đừng trách mắng.

A-na-luật nghe xong, thông cảm và an ủi Ưu-ba-ly:

- Ngươi đừng lo lắng, chúng ta sẽ giúp đỡ cho ngươi sinh sống.

Và quay sang các vương tử, A-na-luật nói:

- Này các vương huynh vương đệ! Ưu-ba-ly hầu hạ chúng ta cũng khá lâu, y rất siêng năng, trung thành. Hôm nay chúng ta đi xuất gia, nên an bài cho cuộc sống của y. Chúng ta hãy gói tất cả những đồ trang sức trên thân mình lại và cho Ưu-ba-ly. Chúng ta xuất gia rồi đâu cần dùng mấy thứ này.

Các vương tử đều tán thành ý kiến của A-na-luật. Mỗi người đều cởi y phục gấm vóc và đồ trang sức châu báu tặng cho Ưu-ba-ly, và bảo trở về thành Ca-tỳ-la, còn họ lại đi tìm Phật.

Các vương tử đi rồi, Ưu-ba-ly định quay về nhưng lúc ấy hốt nhiên đổi ý: “Bây giờ mà ta đem những thứ châu báu này về thành thuật lại, thì lão vương và hoàng gia đại thần nhất định sẽ gán cho ta tội a tòng theo các vương tử, đưa đi xuất gia, tội đáng chết, ta khó mà toàn mạng. Các vương tử tôn quý như thế mà còn bỏ vinh hoa của thế gian để đi xuất gia, còn kẻ hạ tiện như ta thì có lưu luyến cái gì trên cuộc đời này? Hay là ta cũng đi tìm Phật xin theo tu luôn!”
Nghĩ xong Ưu-ba-ly bèn quyết định, như thỏi sắt bị nam châm thu hút, không chút do dự đem bọc đồ trân bảo treo lên nhánh cây, để mặc ai đi ngang có thấy được lấy xài, còn mình đi về hướng đức Phật.

Đi một đỗi, lại nghĩ đến thân phận hạ tiện của mình, trong lòng Ưu-ba-ly nổi lên niềm bi ai tủi hổ, chàng ngồi bên đường khóc lóc, tự nhủ:

- Ta làm gì có tư cách được xuất gia? Các vị ấy là vương tử, còn ta chỉ là thân nô bộc, làm sao dám sánh ngang hàng xuất gia với vương tôn?

Chàng than thở oán trách thế gian không công bình, giận cho số phận mình không may, vừa buồn vừa khóc như vậy, thì bỗng nghe bên tai có người hỏi:

- Có chuyện gì mà anh khóc lóc buồn thảm như vậy?

Ưu-ba-ly ngó lên, thấy tôn giả Xá-lợi-phất, vội chùi nước mắt, quỳ xuống thưa:

- Bạch Tôn giả! Ngài là đại đệ tử của đức Phật, khi Ngài theo Phật về hoàng cung con có được biết Ngài. Xin thỉnh ý Ngài. Một người dòng dõi Thủ-đà-la như con không biết có được theo Phật xuất gia làm đệ tử hay không? Con đã mạo muội vọng tưởng như vậy, thật quá quắc, xin Tôn giả từ bi chỉ bảo.
Xá-lợi-phất hỏi lại:

- Anh tên gì?

- Con tên Ưu-ba-ly.

Tôn giả bèn nhớ lại khi trước, chú thợ cạo của đức Phật đã nhập Tứ thiền lúc ấy, chính là người này. Tôn giả liền nói:

- Giáo pháp của đức Thế Tôn rất tự do, bình đẳng. Không kể người trí hay người ngu, không chia nghề nghiệp sang hèn, chỉ cần có khả năng giữ gìn giới luật, là ai ai cũng có thể làm đệ tử Phật, ai cũng có thể xuất gia, ai cũng có thể chứng quả Chánh giác Vô thượng. Anh hãy theo ta, đức Thế Tôn nhất định sẽ rất hoan hỷ thâu nhận anh làm đệ tử xuất gia.

Ưu-ba-ly nghe nói, mừng rỡ quá đỗi, bèn theo sau tôn giả Xá-lợi-phất về bái kiến đức Phật. Đức Phật cũng hoan hỷ làm lễ thế độ cho Ưu-ba-ly và trao luôn cụ túc giới. “Nước trăm sông đều chảy về biển cả, bốn chủng tánh xuất gia, đồng một họ Thích”, đó là tinh thần của đức Phật quy định trên pháp chế, hôm nay đã thực hiện thành sự thật qua việc Ưu-ba-ly xuất gia.

Đức Phật dạy Ưu-ba-ly:

- Ông rất có thiện căn. Ta biết ông sau này nhất định sẽ tuyên dương chánh pháp của ta. Trước khi ông đến đây, các vương tử đã đến xin ta làm lễ thế độ.

Tuy ta đã thâu nhận họ làm đệ tử nhưng phải gia hạn cho họ tu tập trong bảy ngày, đợi họ quên được tập khí vương tử rồi, chỉ còn một việc là đệ tử của ta thôi, ta sẽ làm lễ cho họ. Lúc ấy họ sẽ dùng lễ độ để ra mắt ông.

Ưu-ba-ly cảm động đến rơi lệ. Tuy ngày trước đã có dịp cạo tóc cho đức Phật, nhưng không ngờ đức từ bi của Ngài cao rộng như thế. Thầy tự nguyện từ đây trở đi sẽ làm một đệ tử tín thành, sẽ luôn luôn theo Phật học tập.

Bảy ngày sau, đức Phật cho gọi Bạt-đề, A-na-luật… bảy vị vương tử ra mắt đại chúng. Ở giữa đông đảo huynh đệ, họ bất ngờ khi nhìn thấy thầy Tỳ-kheo Ưu-ba-ly, các vương tử đều ngạc nhiên quái lạ, đều do dự không biết phải gọi Ưu-ba-ly như thế nào mới đúng. Đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các ông do dự điều gì? Trong pháp xuất gia học đạo việc trước nhất là phải hàng phục tâm kiêu mạn. Ta đã cho Ưu-ba-ly xuất gia trước, thọ giới trước, các ông phải đảnh lễ thầy ấy chứ còn sao nữa?

Bạt-đề, A-na-luật… nghe Phật dạy, đều khiêm tốn cúi đầu làm lễ Ưu-ba-ly, ngay lúc ấy họ cảm thấy tín tâm xuất gia càng thêm mạnh mẽ. Ngược lại, Ưu-ba-ly cảm thấy lúng túng không an. Phật bảo thầy:

- Ông cũng nên dùng lễ huynh trưởng mà đối với các ông ấy.

Ưu-ba-ly hết cả e ngại, cảm động quá chỉ còn biết đảnh lễ đức Phật.

Một người bị xem là kẻ nô lệ hạ tiện, đối với những người xuất gia sau, là những vương tử mình đã từng phục dịch, ở trong Phật pháp lại được lãnh thọ sự đối đãi ngang hàng, đó là việc chưa từng có ở trong một xã hội nặng nề về giai cấp như Ấn Độ.

Việc Ưu-ba-ly xuất gia khiến cho pháp chế của đức Phật dần dần thực hiện. Trong Tăng đoàn không có sự phân chia chủng tộc. Về sau Ưu-ba-ly được thành tựu, thật không cô phụ ân huệ của Phật.

4- MỘT ĐOẠN BỔN SANH

Mùa hạ trong năm Ưu-ba-ly xuất gia, đang khi chúng Tăng cử hành lễ an cư, Ưu-ba-ly đã tinh tấn tu đạo và khai ngộ. Do đó, Tôn giả đã thành một bậc thượng thủ trong Tăng đoàn, được sự cung kính của hai chúng tại gia, xuất gia. Việc ấy cũng làm nhiều người kinh ngạc. Một người dòng Thủ-đà-la thấp hèn mà căn cơ mẫn nhuệ đến như vậy, đó không những làm rạng rỡ cho dòng Thủ-đà-la, mà cũng làm vẻ vang cho tinh thần bình đẳng của Phật giáo.

Nhân dịp này, đức Phật đặc biệt nói đến một đoạn bổn sanh của Ưu-ba-ly.

Về thời quá khứ có hai người bạn đều sanh trong gia đình bần cùng, tuy vậy cả hai đều không quên làm việc thiện, bố thí cúng dường. Do nhân duyên công đức ấy về sau họ tái sanh, một người làm quốc vương tên là Phạm Đức, một người sanh trong một gia đình Bà-la-môn cao quý, tên là Ưu-bà-gia. Ưu-bà-gia kết hôn với một cô nương đẹp mỹ miều, rất mực yêu dấu. Một hôm, nhân lúc Ưu-bà-gia tỏ thái độ lịch sự thân mật với một vài thiếu nữ, bị phu nhân bắt gặp và nàng không bằng lòng chút nào. Nàng hờn giận Ưu-bà-gia, nằm khóc lóc ba, bốn hôm rồi sau đó chẳng thèm nói chuyện với chàng, suốt ngày cứ lầm lì im lặng.

Cô vợ trẻ đa nghi dữ quá khiến Ưu-bà-gia chẳng biết làm cách nào, chỉ biết rầu rĩ mà thôi. Cho đến một hôm, mùa xuân đã qua, sắp sang hè, cô vợ yêu bấy lâu không nói chuyện, bỗng nhiên nay bảo chàng:

- Bữa nay chàng hãy đi ra phố mua ít hoa tươi về trang hoàng trong phòng chúng ta nhé!

Chàng trượng phu đa tình nghe được vợ nói mấy lời rất mừng vui, lập tức ra chợ tìm hoa tươi. Mua xong về giữa đường gặp lúc giữa trưa nóng bức, nhưng tâm tình chàng rất cao hứng vì được giảng hòa với vợ, nên chàng vừa đi vừa lớn tiếng hát vang.

Lúc ấy, vua Phạm Đức đang ở trong cung, nhà vua lên lầu quan sát phong cảnh thấy Ưu-bà-gia đi ngang qua cung vua. Tiếng ca bay đến tai vua Phạm Đức. Nhà vua nghe hát rất lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Nhìn cách phục sức của chàng ta thì thuộc dòng Bà-la-môn, nhằm lúc trời nóng đổ lửa như thế này mà bỗng nhiên ca hát ngoài đường, nhất định chàng ta phải là một người lạc quan lắm.” Nhà vua nổi tánh hiếu kỳ, sai người cho gọi Ưu-bà-gia đến hỏi chuyện. Hai người đàm đạo giây lâu, nhà vua rất vừa ý, phong cho Ưu-bà-gia một chức quan to trong triều, và từ đó rất sủng ái Ưu-bà-gia.

Ưu-bà-gia được vua Phạm Đức tín nhiệm, uy quyền càng ngày càng lớn. Cho đến về sau nhân dân chỉ biết có Ưu-bà-gia mà không biết có vua Phạm Đức. Ưu-bà-gia không biết đủ. Một hôm, nhân vua Phạm Đức ngủ say, chàng khởi ý định hành thích vua đoạt ngôi. Đang lúc nuôi âm mưu soán đoạt, bỗng chàng giật mình tỉnh ngộ, cảm thấy lòng tham muốn về danh lợi quyền tước thật đáng ghê sợ. Chàng đem hết tâm niệm ác độc của mình thuật lại cho vua Phạm Đức nghe, nhà vua lại càng khen ngợi lòng trung thực của chàng. Sau đó, Ưu-bà-gia nguyện từ bỏ địa vị sám hối xuất gia, tu hành không bao lâu liền được thần thông.

Lúc ấy, trong hoàng cung có một người thợ cạo tên Hằng-già-ba-la nghe vua Phạm Đức khen ngợi chí xuất gia của Ưu-bà-gia, ban đầu sanh tâm tùy hỷ, và cũng phát nguyện xuất gia làm đệ tử Ưu-bà-gia, một lòng tu đạo rồi cũng đắc thần thông như thầy.

Hai thầy trò Ưu-bà-gia đều trở thành bậc Thánh, có thần thông ngang nhau. Một hôm, vua Phạm Đức lên núi cúng dường Ưu-bà-gia, vua đảnh lễ thầy rồi lại nghĩ thầm: “Đối với bậc thánh không nên so đo về chỗ xuất thân của quá khứ”, bèn tự mình làm gương, hướng về thầy Hằng-già-ba-la đảnh lễ, và bảo cả trăm quan đại thần tùy tùng cùng đảnh lễ Hằng-già-ba-la. Thầy tuy xuất thân hạ tiện, do oai lực của pháp mà khiến ngay cả nhà vua cũng quỳ lạy.

Trên đây tuy chỉ là một đoạn sự tích của Phật ngày xưa, nhưng pháp vốn vĩnh cửu bất biến, ở trong Phật pháp không kể là xuất thân từ hạng nào, đều không thành vấn đề, người đã khai ngộ đều được mọi người tôn trọng, mà chứng ngộ thì không phân chia giai cấp.

Đức Thế Tôn kể xong câu chuyện, trân trọng bảo đại chúng:

- Ưu-bà-gia thuở ấy chính là thân ta, chàng thợ cạo Hằng-già-ba-la nay chính là Ưu-ba-ly vậy!

Một đoạn cố sự đơn giản như thế, nhưng nếu nghiền ngẫm kỹ, chúng ta sẽ thấy nó hàm chứa biết bao ý chỉ. Vì tham quyền mà sanh tâm sát hại. Trong thời kỳ tu nhân của đức Phật đã từng nuôi dưỡng ý niệm đó. Ưu-ba-ly là dòng Thủ-đà-la, hiện tại được khai ngộ chứng quả, làm bậc thượng thủ trong chúng, được mọi người tôn trọng, chuyện ấy cũng không phải lần đầu, mà cũng đã có nguyên nhân trong quá khứ.

Đức Thế Tôn nói pháp rồi, khiến tất cả lòng nghi ngờ trong chúng đối với Ưu-ba-ly hoàn toàn tiêu tan.

5- TAO NGỘ TRÊN ĐƯỜNG HÀNH HÓA

Sau khi chứng ngộ, với bản tánh cẩn thận gò bó, rất chú trọng tứ oai nghi hằng ngày đối với giới điều đức Phật chế ra, Tôn giả đều nhất nhất tuân thủ, không hề hủy phạm, các bậc Tỳ-kheo đồng học đều tôn xưng là bậc Trì giới đệ nhất .

Về vấn đề này, nếu là người tu chân chánh thì đối với bậc trưởng lão nghiêm trì giới luật đương nhiên rất cung kính, hoan hỷ cúng dường. Còn người nào không tuân quy củ, không nghiêm trì giới hạnh sẽ không ưa người trì giới, đó cũng là chuyện tự nhiên.

Do đó, trong Tăng đoàn có số người không ưa Ưu-ba-ly, thậm chí còn phê bình nữa là khác.

Một bậc Tỳ-kheo giữ giới lúc cư trú tại viện, sẽ có những tín đồ cung kính đến quỳ trước phòng tỏ bày niềm tin, nhưng khi đi ra ngoài hóa đạo không nhất định sẽ được sự hoan nghinh của tăng và tục.

Một hôm, tôn giả Ưu-ba-ly cùng một nhóm các Tỳ-kheo trì giới như pháp đi du hóa các nơi. Các vị xiển dương, đề cao tinh thần trì giới, thường thường cử hành các pháp sám hối khi Yết-ma cử tội, Yết-ma diệt tẫn, Yết-ma y chỉ, Yết-ma quở trách… thì rất hoan hỷ tiếp đón tôn giả. Và trái lại, có một số Tỳ-kheo, khi nghe tin Ưu-ba-ly đến chẳng vui chút nào. Họ bàn soạn với nhau:

- Bữa nay Tỳ-kheo trì giới Ưu-ba-ly đến đây. Lão ấy mà tới nhất định sẽ có chuyện dạy dỗ chúng ta chuyện gì nên làm, chuyện gì không được làm, làm tăng thêm lòng nghi hối cho chúng ta. Chúng ta nên tìm cách cản trở lão ấy, đừng cho ghé đây.

- Lão ta mà đến thì mình đóng cửa lại, đem tọa cụ treo ngoài cửa đừng thèm hỏi han gì lão.

- Cần gì. Hễ lão vừa tới thì ta bỏ đi nơi khác.

Ưu-ba-ly vẫn thường gặp những tình cảnh như thế nên trong lòng hối hận không muốn đi ra ngoài hoằng pháp, nhưng đức Phật lại thường cổ động Tôn giả.
Cho nên một hôm, bà ni Thâu-la-nan-đà tự nhiên đến mắng ngay tôn giả Ưu-ba-ly:

- Ông không phải là người chân tu, chuyên môn ưa gây sóng gây gió. Tại sao ông cứ theo hỏi đức Thế Tôn: Đây là hai bộ Tăng trì, kia là một bộ Tăng trì, chuyện này nên làm, chuyện kia không nên làm… khiến cho cuộc sống chúng tôi tăng thêm khổ sở rối rắm!

Gặp những cảnh như vậy, Ưu-ba-ly chỉ một bề nhẫn nhục, không trả lời đi lại. Một vị Tỳ-kheo giữ giới nghiêm minh thì người chân chánh tu đạo sẽ rất hoan nghinh, còn kẻ tu giả dối thì chẳng ưa chút nào.

Đức Phật rất lưu tâm đến Tôn giả. Mỗi khi gặp các Tỳ-kheo đi hoằng hóa các nơi trở về, Ngài đều thăm hỏi:

- Các ông có gặp Tỳ-kheo Ưu-ba-ly không?

- Bạch Thế Tôn! Con có gặp, tôn giả đang giáo hóa nơi đó, nơi đó…

- Tại nơi ông ấy đi ngang, mọi người có cung kính cúng dường không?

- Bạch Thế Tôn! Có những địa phương chẳng đủ lễ với Tôn giả. Đồ chúng tại gia thì không biết Tôn giả là bậc trì giới, còn Tỳ-kheo xuất gia thì không muốn gặp Tôn giả, thậm chí còn có Tỳ-kheo ni nổi sân mắng chửi nữa!

- Như thế là làm sao? – Đức Phật hoài nghi hỏi.

Tỳ-kheo kia thật tình thưa:

- Tại vì mọi người thấy rằng sống chung với một vị Tỳ-kheo trì giới thật là bất tiện!

Đức Phật nghe xong không vui, liền triệu tập các Tỳ-kheo, dạy bảo giới rất đáng tôn quý, người trì giới như một ngọn đèn sáng, người có phẩm hạnh đoan chánh, thân tâm thanh tịnh tự nhiên ưa chỗ xán lạn. Còn những ai ưa làm điều quấy quá ám muội mới không ưa ánh sáng, thích chỗ hắc ám.

Đức Phật cho người mời các Tỳ-kheo vô lễ với Ưu-ba-ly và Tỳ-kheo ni sân hận nhục mạ Ưu-ba-ly đến. Ngài hỏi:

- Các ông cự tuyệt Ưu-ba-ly, tránh mặt không gặp và sân si ác khẩu mắng chửi ông ấy, thiệt có như vậy chăng?

Những người này không dám nói dối với Phật, chỉ biết thừa nhận:

- Bạch Thế Tôn! Dạ phải, chúng con quả thật có vô lễ với Tôn giả ấy.

Đức Phật nghiêm nghị quở trách:

- Các ông thật ngu si! Không cung kính Tỳ-kheo trì giới thì còn ai đáng cung kính hơn? Giới là thầy của các ông. Giới ở nơi nào pháp ở nơi đó. Giới còn là pháp còn. Các ông không cung kính Tỳ-kheo trì giới chứng tỏ các ông có ý đồ phi pháp!

Vì ái hộ cho Ưu-ba-ly, đức Thế Tôn quở trách nặng nề các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni kia. Như thế đủ biết tôn giả Ưu-ba-ly đã có địa vị trọng yếu đến đâu.

6- NGƯỜI DẸP TRANH CÃI

Trong Tăng đoàn, người y pháp tu hành chứng quả rất nhiều, mà người phạm giới cũng không ít, như Tỳ-kheo Ca-lưu-đà-di, Đề-bà… trong Tỳ-kheo ni thì có Tu-ma, Bà-phả, Thâu-la-nan-đà… đều hay phạm giới. Hạnh ác của họ, danh đồn ác của họ thường làm Phật phiền lòng, Ngài thường khuyên mọi người nên lấy tôn giả Ưu-ba-ly làm mô phạm.

Tăng đoàn vốn thanh tịnh và hòa hợp. Nhưng các Tỳ-kheo tánh xấu khó sửa đổi cũng có lúc khởi gây kình phi pháp, thầy không nhường tôi, tôi chẳng nhường thầy. Đôi bên hiềm khích làm ảnh hưởng đến sự tu hành của đại chúng và ảnh hưởng đến thanh danh của Tăng đoàn. Mỗi khi ở nơi nào có Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo ni khởi sự tranh cãi, thì đức Phật cần phải cử một vị trưởng lão thượng tọa đến đó giải hòa phân xử. Chọn một người có đủ tư cách ấy, không phải là bậc danh cao đức trọng, chỉ cần yếu là có thể phân minh phải trái, có tài cầm cân công bình là được. Mỗi khi có sự tranh cãi xảy ra ở đâu, đức Phật đều sai tôn giả Ưu-ba-ly đến trước phân xử. Việc gây gổ ở nước Câu-diệm-di, ở nước Sa-kỳ, Ưu-ba-ly đã từng làm sứ giả hòa bình, như nắng xuân ôn hòa chiếu đến nơi nào thì những khối băng giá ngưng đọng đều tự nhiên chảy ra.

Ưu-ba-ly thường theo Phật, thường xuyên ở tại thành Xá-vệ. Các Tỳ-kheo nơi đây rất hòa hợp, vì thường được thân cận với đức Thế Tôn. Một thầy, một đạo như sữa hòa với nước, từ xưa đến nay không hề xảy ra những việc không vui hòa, mè đậu lộn lạo. Ưu-ba-ly hiểu ý Phật, mỗi khi vâng lời Phật đi dàn xếp việc cãi vã, Tôn giả thường có một nguyên tắc “Nơi nào gây gổ chấm dứt ngay nơi ấy”. Tôn giả không đem việc gây ở chỗ này đi nói lại chỗ kia, không đem kể xấu người khởi gây cho người khác nghe. Nơi nào thị phi nơi ấy biết. Tôn giả không ưa khai thác rộng việc bất hòa, đã mở những gút mắc của tranh cãi thì không cho lưu dấu vết.

Với tư cách hòa chúng như vậy, thật không hổ là bậc trì giới, là thượng thủ trong Tăng đoàn.

Một hôm, đang trong mùa an cư, đức Phật sai tôn giả đến nước Sa-kỳ dẹp một nhóm gây nhau, Ưu-ba-ly từ chối không đi, đức Phật hỏi:

- Vì sao ông không đi?

Ưu-ba-ly biết câu chuyện này không có Phật giải hòa không xong, nhưng Tôn giả không tiện yêu cầu, chỉ mượn cớ thoái thác:

- Bạch Thế Tôn! Cái y Tăng-già-lê của con quá dày, nếu như đi đường gặp mưa ướt không khô, mà mang thêm một y nữa thì không hợp pháp, xin đức Thế Tôn từ bi, phen này đừng sai con đi được không?

Phật nghe xong, suy nghĩ giây lâu. Ngài muốn Ưu-ba-ly đi hóa giải, nên lại hỏi:

- Ông đi phen này mấy hôm trở về?

- Bạch Thế Tôn! Nếu như con phải đi, thì từ Xá-vệ đến nước Sa-kỳ mất hai ngày, ở lại đó hai ngày, trở về cũng mất hai ngày, một chuyến đi về cũng mất sáu ngày.

Đức Phật gật đầu nói:

- Từ nay về sau, trong thời gian an cư, Tỳ-kheo giữ trong người hai cái y, được phép trong vòng sáu ngày không phạm.

Vì muốn Ưu-ba-ly đi điều tra việc gây gổ mà đức Phật đã sửa đổi giới điều, chẳng phải là đem pháp luật chìu theo người, mà vì Ưu-ba-ly đã có địa vị trọng yếu như thế nào đối với Phật pháp!

Đức Phật sai Ưu-ba-ly đi điều tra chuyện gây gổ, dẹp tranh cãi, đối với các Tỳ-kheo ưa gây, Phật cũng thường bảo Ưu-ba-ly làm pháp Yết-ma sám hối cho họ. Trước khi cử hành pháp Yết-ma, Tôn giả trịnh trọng bảo mọi người:

- Thưa chư vị Đại đức! Tôi vâng lời Phật, vì các ông hay gây gổ làm các pháp Yết-ma, trị tẫn các ông. Lúc ấy, xin các ông đừng sợ hãi, đừng khởi niệm không vui.

Có một số Tỳ-kheo nghe tiếng nói uy nghiêm của Ưu-ba-ly đã không dám ở lại nơi đó, đã đi rồi cũng không dám tranh cãi, chẳng dám để cho vị chấp pháp như núi là Ưu-ba-ly làm pháp Yết-ma. Do đó, môi trường gây gổ dần dần biến mất. Thật tôn giả là vị trưởng lão hòa bình khéo dứt gây.

7- HỎI PHẬT VỀ GIỚI

Tôn giả Ưu-ba-ly có địa vị trọng yếu như thế và được tôn xưng là Trì Giới Đệ Nhất, là vì tất cả những vấn đề quan hệ đến giới pháp, Tôn giả thường đến đức Thế Tôn thưa hỏi đối thoại luận bàn, điều ấy có thể thấy ghi lại trong Luật tạng. Vì đó là những mẩu chuyện rời, hoặc là những giới điều khô khan, chúng tôi khó lòng dùng lối viết chuyện diễn tả vào đây. Hiện tại chỉ có thể sưu tập một hai việc, thuật ra đây đủ để biết những việc khác.

Trong chủng tộc Thích-ca thành Ca-tỳ-la-vệ, toàn quốc đã quy định luật lệ chung, nếu là người phụ nữ dòng họ Thích, không được kết hôn với người khác ngoài họ Thích. Nếu bất tuân sẽ trị tội nặng.

Lúc ấy có cô gái Hắc-ly-xa dòng họ Thích, tuổi đang thanh xuân, trong lúc mặt hoa dáng nguyệt tròn đầy lại bất hạnh chồng chết sớm, khiến một đời xuân trẻ gặp cảnh cô quả thiệt khó chịu được cảnh sớm tối tịch mịch. Ít lâu sau có một thanh niên thuộc họ khác đến cầu hôn, Hắc-ly-xa đã thuận lòng ưng chịu, nhưng gặp tên em chồng cản trở, muốn chiếm chị dâu làm vợ mình.

Tên này phẩm hạnh không ra gì, nhằm lúc Hắc-ly-xa gặp niềm vui mới, nàng đôi ba phen cự tuyệt không chịu đáp ứng, khiến hắn ta nổi giận thề rằng:

- Mi đã có tình riêng, ta sẽ giết mi cho xem.

Hắn bèn bỏ thuốc mê vào trong rượu khiến Hắc-ly-xa uống nhằm say bất tỉnh. Hắn đánh đập cô thương tích cùng mình và lên quan báo cáo.

- Cô này là vợ tôi, tư thông với người khác họ.

Khi Hắc-ly-xa tỉnh dậy, có miệng không lời, đã mang tội như vậy ắt là bị xử tử. Cô bèn thừa dịp người gác hơ hỏng, chạy trốn đến thành Xá-vệ và theo các Tỳ-kheo ni trong thành xuất gia.

Quan quân thành Ca-tỳ-la truy nã cô gái khắp nơi không thấy tung tích. Sau nghe tình báo cho biết Hắc-ly-xa hiện đào tẩu ở nước Xá-vệ, họ bèn tức tốc biên thư cho vua Ba-tư-nặc.

“Nước chúng tôi có một nữ tội phạm đã mang tội quốc pháp. Nghe tin cô ta đang đào tỵ ở quý quốc, chúng tôi mong rằng quý quốc giao trả nữ tội phạm ấy lại cho nước chúng tôi. Sau này, nếu có tội phạm của quý quốc trốn sang nước chúng tôi, chúng tôi cũng sẽ giao lại quý quốc xử lý.”

Vua Ba-tư-nặc xem thư xong hỏi các quan:

- Hắc-ly-xa thiệt có trốn đến nước ta chăng?

Các quan thưa:

- Khải bẩm đại vương! Hắc-ly-xa quả thật đang trốn tại nước ta, nhưng cô ấy đã theo các Tỳ-kheo ni xuất gia. Đại vương đã ban lệnh từ trước nếu ai phạm đến các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni sẽ bị tội nặng. Hiện tại, cô ta đã xuất gia thì đâu có ai dám làm gì được. Xin thỉnh ý đại vương phải dùng biện pháp gì đây?

Vua Ba-tư-nặc suy nghĩ đôi ba phen, rồi biên thư phúc đáp:

“Hắc-ly-xa quả thật có trốn ở nước tôi, nhưng hiện nay đã xuất gia, không thể truy tội. Nếu như việc khác sẽ xin như lời của quý quốc. ”

Vua quan dòng Thích-ca nhận được hồi âm ấy, đều bừng bừng tức giận. Có một nữ tội nhân mà không trừng trị được thì quốc pháp dùng vào đâu?

Vì một nữ phạm nhân xuất gia khiến cho hai nước gây mầm hiềm khích, tôn giả Ưu-ba-ly biết được việc ấy, bèn đến hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, chúng ta có thể thâu nạp cho xuất gia không?

- Này Ưu-ba-ly! Quốc pháp hợp lý hay không hợp lý đó là việc của chánh phủ và dân chúng, nếu như đã phạm tội khi chưa được tuyên bố ân xá, Tăng đoàn không được làm phép xuất gia!

Vị Tỳ-kheo ni thâu nhận Hắc-ly-xa bị đức Thế Tôn quở trách một phen. Điều đó không phải Phật thiếu lòng từ, không cứu tội nhân, nhưng vì Tăng đoàn thanh tịnh phạm giới luật thì bị diệt tẫn, còn phạm phép nước phải chịu luật nước xử trị. Phật pháp không thể che chở cho tội nhân. Vì muốn kiện toàn Tăng đoàn, để cho giới pháp không xúc phạm quốc pháp, tôn giả Ưu-ba-ly đã bàn luận vấn đề này với Phật.

Ưu-ba-ly lại có khi thưa hỏi với đức Phật về một vấn đề lý thú:

- Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni có thể làm mai mối cho nam nữ không?

Đức Phật trả lời:

- Này Ưu-ba-ly! Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni đem tâm tình người nam ngỏ với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, cho đến giới thiệu giao hội một lần, sẽ phạm Tăng-già-bà-thi-xa, cần phải hối quá.

- Như vậy thì, bạch Thế Tôn! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni trong Tăng đoàn đối với việc hôn lễ của tín đồ tại gia, phải nên có thái độ thế nào mới đúng?

- Không nên lưu tâm lắm, nếu là hợp pháp, thì có thể đối trước Tam bảo làm lễ chứng minh cho họ.

Giới là ý nghĩa phòng phi chỉ ác, vốn là khuôn phép cho thân tâm, mà vấn đề nam nữ rất dễ gây rắc rối, dễ đem lại phiền não bất an, tôn giả Ưu-ba-ly – Trì giới đệ nhất – đã thưa thỉnh đức Phật việc này. Trong giới luật đã liên quan đến việc hạn chế tương giao nam nữ rất nhiều.

8- PHÉP THĂM NUÔI BỆNH NHÂN

Đối với bệnh nhân thế nào? Ưu-ba-ly đã một phen xin đức Phật giảng giải tỉ mỉ về vấn đề này.

Khi có bệnh, tuy đang đau ốm nhưng phải thế nào mới hợp giới pháp? Khi thăm nuôi bệnh, phải chăm nom thế nào mới hợp pháp? Ưu-ba-ly rất quan tâm đến việc này.

Có lúc Tôn giả theo sau đức Thế Tôn, thấy một vị Tỳ-kheo bệnh nằm nơi ô uế không thể tự ngồi dậy, lại một lần khác Tôn giả thấy một Tỳ-kheo bệnh nằm bên đường đi, các Tỳ-kheo khác thấy rõ ràng nhưng vì đức Phật chưa chế giới khán bệnh nên thầy chỉ nhiễu quanh người bệnh rồi bỏ đi, không chăm nom. Lại có những Tỳ-kheo khi mang bệnh cho rằng không cần trì giới nên tự ý buông lung. Vì những chuyện như vậy, Tôn giả bèn đưa vấn đề ra thỉnh vấn đức Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như có Đại đức Tỳ-kheo bệnh, thì nên chăm sóc như thế nào?

- Này Ưu-ba-ly! Khi có Tỳ-kheo đại đức bệnh, không nên để nằm tại phòng thất nhỏ hẹp, nên để nằm ở phòng chính thoáng khí sáng sủa phía ngoài. Đệ tử của vị ấy nên thường hầu hạ hai bên, quét dọn trong phòng, cắm hoa đốt hương, tùy thời theo dõi hơi thở của thầy. Nếu các Tỳ-kheo đồng học đến thăm, nên rót nước mời trà. Nếu khách hỏi điều gì, người bệnh muốn đáp nhưng sức yếu không có tinh thần giảng giải, thị giả nên trả lời thay. Khi hỏi thăm an ủi nên tùy thuận thuyết pháp, vì người bệnh phục vụ mọi thứ, cung cấp đầy đủ những điều cần yếu của người bệnh về ăn uống, thuốc men. Nếu có tín chúng tại gia đến thăm bệnh, nên mời ngồi ở sau người bệnh, và vì họ thuyết pháp, nếu có cúng dường nên niệm Phật chú nguyện tiếp thọ. Nếu người bệnh muốn đại, tiểu tiện, người thăm bệnh nên lè lẹ lui ra. Trong phòng trừ người thị giả nuôi bệnh, ngoài cửa phòng cũng cần có người, không nên để người đột nhập.

Này Ưu-ba-ly! Tỳ-kheo Đại đức bệnh nên theo như trên mà khán bệnh.

- Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo tiểu đức khi bệnh, chúng con đến chăm sóc thăm nom như thế nào?

- Này Ưu-ba-ly! Tỳ-kheo nhỏ nếu đau ốm, không nên để nằm nơi phòng chính, đừng để hơi bệnh ô uế bay đến các phòng khác. Sư trưởng hoặc đệ tử của người đó đều nên đến chăm sóc. Nếu như không có đệ tử hay sư trưởng, các vị đồng trụ xứ nên cử người khán bệnh, đôi ba người thay phiên nhau chăm sóc. Bệnh nhân nếu cần thuốc men ăn uống, người khán bệnh nên cung cấp đầy đủ, nếu không có đầy đủ thuốc và vật thực thì đại chúng nên cấp cho, như đại chúng cũng không có, nên lấy những y bát đáng giá của người bệnh mà đổi lấy thuốc men, vật thực. Nếu như người bệnh tiếc rẻ không muốn đổi, nên bạch với vị trưởng lão đại đức mềm mỏng thuyết pháp để người bệnh vui lòng xả bỏ vật chất, rồi sau mới đem đổi. Nếu không có cách gì đổi chác, đại chúng nên đi xin về nuôi người bệnh. Nếu không xin được thì lựa thức ăn thượng vị của chúng Tăng đem cho, hoặc Tăng chúng không có, người khán bệnh nên đem theo hai bát vào làng xóm khất thực, lựa thức ăn ngon cho người bệnh. Này Ưu-ba-ly! Khi chăm sóc bệnh cho Tỳ-kheo nhỏ nên làm như thế.

Những vấn đề liên quan đến Tỳ-kheo có bệnh, cách ăn uống, thuốc thang quy định thế nào, cho đến sau khi bệnh nhân viên tịch xử lý những vật còn lại, tôn giả Ưu-ba-ly đều thưa hỏi Phật. Tôn giả đã lưu tâm tỉ mỉ đến người bệnh, chúng ta thấy rõ tinh thần từ bi vì người của Tôn giả, và đó cũng là tinh thần trì giới.

Một vị Tỳ-kheo xuất gia, cắt ái từ thân, xa cách làng xóm gia đình, gia nhập Tăng đoàn, mà lúc đau bệnh nếu không ai săn sóc sẽ rất khổ sở. Nhưng từ khi Ưu-ba-ly thưa hỏi đức Phật về cách khán bệnh thì quy củ ổn định, khi bệnh không còn bất ổn nữa. Trong tám phước điền thì khán bệnh là phước điền đệ nhất, nào là sư phụ, sư huynh, sư đệ, đệ tử đều chăm lo cho bệnh nhân. Qua câu chuyện giữa đức Phật và Ưu-ba-ly, chúng ta thấy vấn đề ấy rất quan trọng đối với Tăng chúng.

9- PHÁ TĂNG VÀ HÒA TĂNG

Ưu-ba-ly đứng trên lập trường trì giới, nên thường không quan tâm đến vấn đề pháp chế, vấn đề nam nữ, vấn đề lão bệnh, nhưng Tôn giả quan tâm nhất là vấn đề phá Tăng và hòa Tăng.

Trong Tăng đoàn lục hòa, hòa hợp về giới luật mới có thể đồng sống chung, cho nên một vị Tỳ-kheo trì giới đặc biệt để ý đến vấn đề Tăng đoàn hòa hợp.

Một hôm, Phật ở tại thành Xá-vệ, Ưu-ba-ly nghĩ đến vấn đề đoàn kết của chúng Tăng, Tôn giả bèn đến chỗ của đức Phật, cúi đầu đảnh lễ và thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi về thế nào là phá hòa hợp Tăng?

- Này Ưu-ba-ly! – Đức Phật ngừng một chút rồi mới nói. Nếu có vị Tỳ-kheo hiểu nghĩa lý sâu xa đúng pháp đúng luật, thì các đệ tử của vị ấy dù tại gia hay xuất gia đều phải lễ bái, cung kính, tùy thuận theo lời chỉ dạy của vị ấy. Nếu có người khinh thị, đàm tiếu, chê bai, hủy báng đó là phá hòa hợp Tăng. Nếu các tín đồ tại gia, đối với chư Tăng phân chia nhân ngã, hoặc khiêu khích gây mầm chia rẽ trong Tăng đoàn, hoặc làm nhiều chuyện rối rắm, gọi đó là phá hòa hợp Tăng. Hoặc như quan quân chính quyền cố dùng quyền thế mà can thiệp vào nội bộ tự viện, xua đuổi Tăng Ni, gọi là phá hòa hợp Tăng.

- Bạch Thế Tôn! Người phá hòa hợp Tăng bị tội ra sao?

- Ưu-ba-ly! Tội phá hòa hợp Tăng phải đọa địa ngục, chịu khổ trong một kiếp.

Ưu-ba-ly lại hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là hòa hợp Tăng?

- Này Ưu-ba-ly! Lễ bái cung kính tùy thuận theo vị Tỳ-kheo như pháp, như luật, và có thể phát tâm hỗ trợ chúng Tăng, khen ngợi chúng Tăng, thì gọi là hòa hợp Tăng.

- Như vậy thì người hòa hợp Tăng được những công đức gì?

- Công đức của người ấy được sanh lên cõi trời thọ hưởng khoái lạc trong một kiếp.

Công và tội của hòa Tăng và phá Tăng, không phải Ưu-ba-ly không biết, nhưng Tôn giả muốn chính kim khẩu Phật nói ra điều đó để tăng thêm sự quan trọng và sức mạnh. Tôn giả vốn là một người khiêm tốn, giữ luật, rành rẽ nghĩa lý, tác phong của Tôn giả, thái độ của Tôn giả khiến chúng ta phát khởi lòng kỉnh ái vô lượng.

10- KẾT TẬP TẠNG LUẬT

Bình thường tôn giả Ưu-ba-ly xử lý những rắc rối trong Tăng đoàn, thường làm pháp Yết-ma sám hối cho các Tỳ-kheo phạm giới, thường luận bàn với đức Phật về những chỗ vi tế trong giới luật. Lâu dần, tôn giả thành một bậc danh cao đức trọng, về phương diện giới luật, Tôn giả có đầy đủ quyền hạn. Đức Phật tuyên bố tôn giả là người Trì giới đệ nhất, và các vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn cũng công nhận như vậy.

Có các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, nếu không hiểu một vài điểm trong giới luật, không tiện thưa hỏi Phật, thảy đều thỉnh giáo với Ưu-ba-ly. Tôn giả như một cổ đại hồng chung trầm mặc, bình thường ít nói, nhưng gặp việc cũng phát ra ảnh hưởng lớn.

Một đời của Ưu-ba-ly, vì Tôn giả là vị Tỳ-kheo trì giới, rất ít giao thiệp với kẻ thế tục, không có những hoạt động ngoài xã hội. Giới luật được thành lập vì Tăng đoàn nên sanh hoạt của Ưu-ba-ly xưa nay không rời khỏi Tăng đoàn. Những ký sự liên quan đến Tôn giả, chúng ta cũng chỉ có thể giới hạn trong Tăng đoàn.
Khi đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả cũng xấp xỉ bảy mươi tuổi. Các vị đại đệ tử vân tập trong hang Tất-bát-la, do Đại Ca-diếp làm thủ tọa, đã đề cử A-nan kết tập tạng Kinh, Ưu-ba-ly kết tập tạng Luật, nhưng đang khi đại chúng cung thỉnh, Tôn giả đã khiêm tốn từ chối:

- Tôi không dám đảm nhận trách nhiệm lớn lao, xin chư vị hãy mời trưởng lão khác.

Tôn giả Đại Ca-diếp ủng hộ Ưu-ba-ly, thấy từ chối, bèn nói:

- Tôn giả Ưu-ba-ly! Xin đừng khách sáo. Tuy hôm nay ngồi tại tòa có năm trăm người đều là Tỳ-kheo trưởng lão, nhưng ngay từ ban đầu, đức Thế Tôn đã thọ ký Tôn giả thành tựu được mười bốn pháp, trừ đức Phật ra, trong Tăng đoàn Ngài là người trì giới đệ nhất, tạng Luật hiện tại do Tôn giả tụng ra đấy!
Ưu-ba-ly nhận lời, và trước tiên đưa ra nhiều nguyên tắc, yêu cầu đại chúng cùng tuân theo, rồi sau mới tụng luật.

Khi Tôn giả lên tòa, mỗi mỗi điều luật đều nói rõ giới này Phật nói lúc nào, ở đâu, nói với người nào, do nguyên nhân gì mà chế giới, và phạm giới ấy có tội, không tội ra sao. Các vị trưởng lão tham gia cuộc kết tập, đối với sự ghi nhớ tỉ mỉ của Tôn giả đều khâm phục sát đất.

Một vị xuất thân từ dòng hạ tiện, lại có địa vị cao tột như thế trong Tăng đoàn, thiệt chẳng phải là điều ngẫu nhiên. Sau hết, vì tôn giả đã chủ trì buổi kết tập Thánh điển Luật tạng, một trong ba tạng, nên được hưởng thọ sự kính ngưỡng bái phục của muôn đời sau, khiến cho các dân tộc khổ nạn thêm tín tâm mạnh mẽ, khiến cho ánh sáng bình đẳng của Phật giáo đã chiếu sáng ngàn vạn đời cho tất cả chúng sanh.