headertvtc new


   Hôm nay Thứ sáu, 03/05/2024 - Ngày 25 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Uyển Lăng Lục (tiếp theo...)

 CHÁNH VĂN

Kinh Pháp Hoa nói: “Trong mười hai năm thường dạy trừ phẩn”.

GIẢNG

Đó là hình ảnh chàng cùng tử trở về quê, gặp cha rồi nhưng chưa dám nhìn cha. Ông cha biết nhưng không trực tiếp gọi lại, bảo người quản gia dạy chàng cùng tử mười hai năm dẹp phân cho sạch. Ý này để chỉ tất cả nghiệp cũ đều phải bỏ sạch hết.

CHÁNH VĂN

Chỉ trừ bỏ chỗ thấy biết trong tâm, lại nói “dẹp trừ phẩn hý luận”.

GIẢNG

Tất cả những trò đùa cợt phải dẹp bỏ hết.

CHÁNH VĂN

Vì thế, Như Lai Tàng vốn tự không lặng trọn không dung chứa một pháp, nên kinh nói “cõi nước chư Phật cũng đều không”.

GIẢNG

Trong kinh dạy dẹp hết tất cả dính mắc từ xưa đến giờ. Nên nói trong Như Lai tàng vốn tự không lặng, trọn không dung chứa một pháp, nên kinh nói “cõi nước chư Phật cũng đều không”, tức là trong kho Như Lai rỗng không vắng lặng, không dính mắc một vật gì.

CHÁNH VĂN

Nếu nói Phật đạo tu học mà được, thấy biết như thế hoàn toàn không liên hệ. Hoặc tạo một cơ một cảnh, nhướng mày chớp mắt, chỉ vì đối người đương cơ nói để khế hội. Được chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ người kia, nếu họ được đạo lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp buồn bã. Người học thiền tâm ý như thế có gì được liên hệ.

GIẢNG

Nếu nói Phật đạo tu học mà được, thấy biết như thế hoàn toàn không liên hệ, nói tu học mà được Phật đạo thì Phật đạo sanh diệt vô thường. Hoặc tạo một cơ một cảnh, nhướng mày chớp mắt, là hét là đánh v.v… chỉ vì đối người đương cơ nói để khế hội, chớ không phải pháp cố định.

Được chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ người kia, nếu họ được đạo lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp buồn bã. Người học thiền tâm ý như thế có gì được liên hệ. Đây là nói người đã hiểu được một chút ít thiền lý rồi, thuyết giảng lại cho người, họ hiểu được, lòng sanh vui thích cho mình đã thành công. Nếu gặp ai bẻ lại, lý mình không trôi thì sanh lòng buồn bực. Như vậy là chưa thâm nhập được lý thiền.

CHÁNH VĂN

Dù ông hội được ít phần đạo lý, chỉ là được cái tâm sở pháp, thiền đạo không liên hệ. Sở dĩ Tổ Đạt Ma mặt xây vô vách, đều khiến cho người không có chỗ thấy, nên nói: “quên cơ là Phật đạo, phân biệt là cảnh ma”.

GIẢNG

Đây nói rõ cho dù mình hội được một chút ít đạo lý, cũng thuộc về tâm sở pháp, chớ chưa phải thiền đạo. Tổ Đạt Ma khi sang Trung Hoa tới chùa Thiếu Lâm, ngồi xây mặt vào vách chín năm để làm gì? Để quên cơ, quên cảnh, không còn có chỗ thấy, chớ không phải ngồi tránh khách. Quên cơ là gần với Phật đạo. Người nào phân biệt lanh lẹ đó là cảnh ma. Người buông hết muôn duyên, cơ hội đến với mình, không dính mắc, đó là Phật đạo.

CHÁNH VĂN

Tánh này dù khi ông mê cũng không mất, khi ngộ cũng không được, tự tánh thiên chân vốn không mê ngộ, hư không giới khắp giáp mười phương nguyên lai là một tâm thể của ta. Dù ông động dụng tạo tác đâu rời hư không. Hư không xưa nay không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, không mê không ngộ, thấy rõ ràng không một vật, cũng không người không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ, cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu có nghĩ bàn. Chân Phật không miệng chẳng biết nói pháp, thật nghe không tai thì cái gì được nghe ? Trân trọng!

GIẢNG

Tánh này là tánh giác của chúng ta, nó không mê không ngộ, không được không mất. Tự tánh thiên chân là tự tánh sẵn có chân thật. Chữ thiên này không phải thiên lệch một bên, mà thiên là sẵn. Tự tánh chân thật, vốn không mê ngộ. Hư không giới khắp giáp mười phương nguyên lai là một tâm thể của ta, trùm khắp, không riêng biệt bên nào.

Dù ông động dụng tạo tác đâu rời hư không, dụ như mọi hoạt động tạo tác của chúng ta, không có hoạt động nào rời ngoài hư không. Cũng vậy tất cả hoạt dụng của tâm không rời tự tánh chân thật. Tự tánh không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi. Vì vô lậu vô vi nên không có tướng sanh diệt. Không mê không ngộ, thấy rõ ràng không một vật. Tại sao không một vật mà thấy rõ ràng? Như hiện giờ chúng ta thấy tất cả mọi vật trước mắt, là nhờ có hư không. Nếu không có khoảng trống làm sao chúng ta thấy được mọi vật chung quanh. Như vậy tất cả vật ta thấy, có cái nào ngoài hư không đâu.

Cũng thế, tâm thể trùm khắp, nhưng không có tướng cũng như hư không vậy. Các tướng chúng ta thấy đều là tướng sanh diệt, còn tâm thể không sanh diệt, dụ như hư không. Nó như hư không chớ không phải hư không, vì hư không vô tri, còn tâm thể là tri giác. Tâm thể khác với hư không là thế, song vì thể của nó rỗng không, không có tướng mạo nên nó thường được dụ giống như hư không, không một vật.

Cũng không người không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ, cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu có nghĩ bàn. Chỗ ấy không còn một mảy may dính mắc, không thể nghĩ bàn.
Chân Phật không miệng chẳng biết nói pháp, thật nghe không tai thì cái gì được nghe? Chân Phật không biết nói pháp, còn cái thật nghe không phải ở lỗ tai, như vậy lấy cái gì để nghe? Chân Phật là tri giác bất sanh bất diệt, còn nói pháp thì có sanh diệt nên nói chân Phật không biết nói pháp. Còn tánh nghe chân thật của chúng ta không có tai. Tại sao ? Vì tánh nghe đâu có hình tướng. Lỗ tai có hình tướng, tánh nghe không hình tướng nên nói không có tai.

CHÁNH VĂN

Một hôm, Sư thượng đường chỉ dạy đại chúng: Về trước, nếu đập không thấu triệt, đêm ba mươi tháng chạp đến rồi, bắt buộc ông bứt rứt rối loạn. Có một bọn ngoại đạo vừa thấy người nói tập công phu bèn cười lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi hỏi ông, bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến, ông lấy cái gì để chống cự sanh tử? Ông hãy suy nghĩ xem, có đạo lý nào được gọi là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có một bọn thần lười, quỷ rỗi vừa thấy người có chút bệnh, bèn bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!” Đến khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp khát mới đào giếng. Trói tay khóa chân lại gặp chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi, bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ thay!

GIẢNG

Đoạn này ngài dạy nếu trước đập phá không thấu triệt thì đến ba mươi tháng chạp là giờ sắp lâm chung, bắt buộc ông phải bứt rứt phải rối loạn, thân này bị hành hạ khổ sở. Bấy giờ mới nói, có một bọn ngoại đạo vừa thấy người nói tập công phu bèn cười lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi hỏi ông, bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến, ông lấy cái gì để chống cự sanh tử ? Ngoại đạo đây cũng là ngoại đạo trong nhà Phật, họ nói người tu cần gì công phu. Nếu không công phu thì khi cái chết đến làm sao chống cự nổi ?

Chính vì điểm này mà tôi bắt Tăng Ni phải ngồi thiền tới hai tiếng đồng hồ, đau chân gần chết mà cũng phải ráng ngồi. Bởi vì cái đau chân trong lúc ngồi thiền còn nhẹ hơn cái đau lúc sắp ra đi. Sắp ra đi không phải đau chân thôi mà đau cả thân thể. Trong kinh diễn tả như con cua bị lột vỏ vậy, da thịt chỗ nào cũng đau, lúc đó làm sao chịu nổi? Bấy giờ tập đau cái chân, sau nó đau nhiều hơn một chút mình cũng chịu được. Ngày nay cứ sợ đau, chừng đó đau quá, nhào lộn, khổ sở rên rỉ, có nguy hiểm không? Như vậy tập công phu là một phương pháp để chúng ta có sức mạnh chống cự với sanh tử. Còn không chịu tập thì sanh tử đến biết làm sao? Ngài đặt câu hỏi:

Ông hãy suy nghĩ xem, có đạo lý nào được gọi là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có đức Di Lặc nào trời sanh ra hay đức Thích Ca nào tự nhiên thành Phật không ? Phật Thích Ca phải khổ hạnh sáu năm, ngồi cội Bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, sau mới thành Phật, tất cả đều do công phu tu tập mà ra. Đức Di Lặc cũng vậy, sở dĩ ngài thành Phật trễ hơn đức Thích Ca vì đời quá khứ ngài lười hơn Phật Thích Ca một chút, cho nên tu đồng thời mà ngài thành Phật trễ hơn. Điều này cho chúng ta thấy người tu không thể không có công phu, nhưng nếu có công phu mà chấp vào công phu là họa. Phải phá hết cái chấp thật của mình, phá được các thứ chấp công phu rồi mới thành công.
Chúng ta ngồi thiền ngày đêm sáu giờ để làm gì? Để phá mê. Vì lâu nay chúng ta lầm cho vọng tưởng là tâm mình, bây giờ nó hiện lên phải phá đập. Phá đập riết mấy chú vọng tưởng sẽ lặng, có thế việc tu mới tiến, mới thành công. Nhưng muốn phá mê cũng cần có thời gian, không phải biết vọng tưởng là nó hết liền, vì vậy phải có công phu.

Do đó những người cho công phu không có ý nghĩa gì, được xem là: Có một bọn thần lười, quỷ rỗi, vừa thấy người có chút bệnh, bèn bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!”, thần lười quỷ rỗi thấy người tu liền chê cười, cho đó là chướng ngại, bảo buông hết đi. Đến khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp khát mới đào giếng. Trói tay khoá chân lại gặp chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi, bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ thay! Ngài nói hậu quả khổ của những người không chịu tu.
 

[ Quay lại ]