headertvtc new


   Hôm nay Thứ ba, 19/03/2024 - Ngày 10 Tháng 2 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

KINH PHÁP HOA - PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

CHÁNH VĂN:

Lúc bấy giờ, trong đại hội nghe Phật nói thọ mạng, kiếp số dài lâu như thế, vô lượng, vô biên, vô số chúng sanh đặng lợi ích lớn.

Khi đó đức Thế Tôn bảo Ngài Di Lặc đại Bồ Tát: "A Dật Đa! Lúc ta nói đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh đặng "Vô sanh pháp nhẫn".

Lại có đại Bồ Tát nghìn lần gấp bội đặng môn "Văn trì đà la ni". Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng "Nhạo Thuyết vô ngại biện tài". Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng trăm nghìnmuôn ức vô lượng môn "Triền đà la ni" lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân bất thối".

Lại có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân thanh tịnh". Lại có tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ Tát tám đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát bốn đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát ba đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát hai đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có một tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát một đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Lại có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

GIẢNG:

Phẩm này với phẩm Như Lai Thọ Lượng và Tùng Địa Dũng Xuất có liên hệ nhau: Bồ Tát dưới đất vọt lên thì các vị trong hội chúng mới nghi, rồi Phật đáp về tuổi thọ Như Lai, thì giải nghi. Qua đây nói về phân biệt công đức những vị nghe đến tuổi thọ của Như Lai được ngộ nhập, nên đến phẩm này do trong đại hội đã nghe được tuổi thọ của Như Lai là dài lâu không tính kể, trong đó những vị ngộ chứng được pháp thân thường trụ có cạn có sâu, Phật phân biệt tán thán những công đức đó, nên gọi là phân biệt công đức. Đến đây nhiều vị đã quên cái thấy sanh diệt, nhơ sạch, ngay cõi Ta Bà này là nó trong sạch trang nghiêm, tịnh độ là ngay đây thôi, vậy là khỏi phải bỏ đây tìm kia, quên niệm đây kia đó mới thành được cái diệu ngộ. Chính chỗ này là chỗ văn tự chữ nghĩa không thể nói hết được. Công đức hữu vi không thể sánh kịp, cho nên ở đây phân biệt công đức này là công đức vô vi, đó mới thật là chỗ trì kinh. Bởi vậy trong đại hội nghe Phật nói thọ mạng dài lâu thì vô số biên vô lượng chúng sanh đặng lợi ích lớn, Phật mới phân biệt trong đây những vị chứng đặng Vô sanh pháp nhẫn, rồi Văn trì đà-la-ni..v.v.. Vô sanh pháp nhẫn, là an trụ trong pháp vô sanh, đây là trí tuệ phá tan được niệm sanh diệt, ngay trong thế giới này mà không thấy một pháp thật chớ không phải là phá hết các pháp mới gọi là vô sanh.

Trong nhà thiền có vị tăng hỏi thiền sư Tuấn Cực, đệ tử nối pháp của Hòa thượng Phá Táo Đọa: "Thế nào là người tu hạnh lành?" Ngài Tuấn Cực đáp "Mang gông đeo còng". Rồi hỏi "Thế nào là người tu hạnh dữ" Ngài đáp: "tu thiền nhập định". Ông tăng này không hiểu nổi, ông thưa "Con căn cơ cạn cợt xin thầy chỉ thẳng cho" Ngài Tuấn Cực mới bảo: "Ông hỏi ta dữ, thì dữ chẳng theo lành, còn ông hỏi ta lành, lành chẳng theo dữ". Ôâng tăng nghe vậy hồi lâu chưa hiểu. Ngài Tuấn Cực hỏi "Vậy chớ ông có lãnh hội chăng?" Ông tăng thưa: "chẳng lãnh hội" Ngài Tuấn Cực bảo: "Người dữ thì không có niệm lành, còn người lành thì không có niệm dữ, do đó mà nói lành dữ như mây nổi đều không có chỗ khởi diệt". Đó là pháp vô sanh, ông tăng nghe lời đó liền đại ngộ. Sau Hòa thượng Phá Táo Đọa nghe thuật lại Ngài nói: "Kẻ này lãnh hội tột cùng các pháp vô sanh". Mình hiểu sao? Hỏi lành thì lành không theo dữ, hỏi dữ thì dữ không theo lành. Tức là ngay khi lành thì không có niệm dữ, còn ngay khi dữ thì không có niệm lành, cho thấy lành dữ là cái đối đãi nhau chớ không có thật, hễ có cái này thì không có cái kia, cũng như sáng và tối vậy. Có sáng thì không có tối, có tối thì không có sáng, sáng tối hai cái đối đãi nhau không cố định thật, đây cũng vậy, lành dữ không cố định thật. Sư nói lành dữ như mây nổi đều không có chỗ khởi diệt. Do tâm mình vọng chấp lành thì mới hiện lành, vọng chấp dữ thì nó hiện dữ chớ không thật có cố định nào lành, cố định nào dữ, nếu cố định, dữ thì dữ mãi rồi, vậy quên được niệm lành dữ thì ngay đó ngộ được pháp vô sanh, thấy vô sanh là ngay nơi mình, mình cảm nhận được, chớ không phải chuyện xa xôi. Đây đại hội nghe tới Như Lai thọ lượng thì ngộ được pháp vô sanh, có số vị được văn trì đà la ni. Văn là nghe, trì là giữ, được văn trì đà la ni này, nghe qua lời Phật thì nhận giữ không còn quên mất. Rồi vô số vị được nhạo thuyết vô ngại biện tài, biện luận không cùng không tận, rồi một số nữa được Triền đà la ni, tức là được trí này thì thông suốt vô lượng pháp, mỗi pháp đều dung thông lẫn nhau không có ngại. Còn số lớn nữa là chuyển pháp luân bất thối, lấy đây độ sanh thẳng đến thành Phật, không còn lui sụt. Một số nữa chuyển pháp luân thanh tịnh, tức là không còn nhơ nhiễm, không còn dính thế gian, có số còn tám đời được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một số chúng sanh lớn phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

Như vậy nghe tới tuổi thọ Như Lai này, hoặc ít hoặc nhiều đều có lợi ích, bớt mê lầm, trong đây mỗi người có bớt chút mê lầm chăng? Không nghe chỗ này thì hiểu theo nghĩa thông thường, Phật là đức Thích Ca với thân 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sanh ra ở Ấn Độ vậy thôi, khi Phật thổ lộ chuyện này thì rõ Phật không phải là thân đó thôi mà còn có cái sâu hơn nữa. Vậy Phật là thân tướng tốt, có công đức như vậy mà rốt cuộc cũng hoại, cũng trở về sanh diệt huống nữa thân mình, cho nên từ đó bớt lầm chấp.

CHÁNH VĂN:

Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ tát đó đặng pháp lợi, trên giữa hư không, rưới hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la, để rải trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, và rải đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Đa Bửu Phật ngồi trên tòa sư tử trong tháp bảy báu: cùng rải tất cả các vị Bồ tát và bốn bộ chúng.

Lại rưới bột gỗ chiên đàn, trầm thủy hương v.v… trong hư không, trống trời tự kêu tiếng hay sâu xa.

Lại rải nghìn thứ thiên y, thòng các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc chơn châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá, tự nhiên khắp đến cúng dường đại chúng.

Mỗi trên đức Phật có các vị Đại Bồ tát nắm cầm phan lọng, thứ đệ mà lên đến trời Phạm thiên. Các vị Bồ tát đó dùng tiếng tăm hay ca vô lượng bài tụng ngợi khen các đức Phật.

GIẢNG:


Khi chư Phật nói lên lợi ích của chư vị Đại Bồ tát trong pháp hội thì ở trên trời rưới hoa, hương, rải thiên y, chuỗi ngọc cúng dường, khiến cho khắp nơi đều trang nghiêm, rực rỡ, nhìn đâu cũng hết thấy nhơ. Ngầm chỉ khi mình nhận ra được tuổi thọ Như Lai, thấu được pháp thân chân thật, thì nhìn ra đâu đâu cũng đều thanh tịnh, cho nên quí vị đọc chỗ này, thấy có chỗ nào có bụi bậm không? Trên trời thì rưới hoa Mạn đà la, rưới bột chiên đàn, chuỗi ngọc, lò hương báu, cầm phan lọng tốt, tìm không ra hạt bụi nào. Như vậy nghe đến chỗ chân thật này là có niềm vui lớn lao không thể nói hết, có công đức rất lớn, bởi vì đây là chỗ từ vô lượng kiếp mê lầm, mình chỉ biết thân sanh diệt này thôi, nên chìm trong sanh tử, không biết đâu là lối ra. Bây giờ nghe được chỗ này, có được lối ra rồi, còn có gì vui hơn nữa? Đường giải thoát mở rồi, chỉ còn chịu đi hay không? Sự thật là mình đang sống trong cõi giải thoát, mà không hay, không nhận, mình tưởng giải thoát là tìm đến cõi nào đó, hay một thế giới nào đó thành như xa. Cho nên có vị Tăng hỏi Ngài Triệu Châu:

- Học nhân mờ tối chậm lụt, đang một chìm một nổi. Vậy thế nào ra khỏi được?

Ngài Triệu Châu im lặng thôi, không đáp gì hết. Ông tăng thưa:

- Con hỏi thật Hòa thượng mà!

Ngài Triệu Châu bảo:

- Ông đang ở đâu làm một chìm một nổi?

Quý vị thấy chỗ đó là thấy lối ra! Câu hỏi học nhân đang mờ tối, chậm lụt, đang chìm nổi, làm sao ra khỏi, tức tìm lối ra. Nếu người thường giảng theo văn tự chữ nghĩa, muốn ra khỏi phải tu hành đi, phải bỏ này bỏ kia đi, đây đáp "Ông ở đâu mà làm một chìm một nổi?".

Nếu ông đang chìm nổi thì còn ai ở đây hỏi? Do đó Ngài mới hỏi: "Ông đang ở đâu làm một chìm một nổi?". Còn người nào làm một chìm một nổi ông chỉ người đó ra xem?

Ngay chỗ này mình tỉnh lại là xong! Mình cứ tưởng còn có cái gì đó, còn có cái tôi nào đó đang làm một chìm một nổi. Không ngờ là mình đang sống trong chỗ chân thật này mà mê. Chỉ cái tưởng đó, là cái làm mình chìm nổi chớ không gì hết. Còn đây phải thấy ông đang hỏi rõ ràng, đâu còn ai nữa làm một chìm một nổi? Tức là ngay trong cái sanh diệt này, có cái bất sanh bất diệt đó rồi, nhận đó là lối ra liền, là được niềm vui vô kể, lợi ích không nói hết.

CHÁNH VĂN:

Khi ấy, Ngài Di Lặc Bồ tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:

                Phật nói pháp ít có
                Từ xưa chưa từng nghe
                Thế Tôn có sức lớn
                Thọ mạng chẳng thể lường.           
GIẢNG:


Đây là tán thán Phật nói pháp rất ít có, từ xưa nay chưa từng nghe, vì ngôn ngữ không thể nói tới chỗ này, phải mắt Phật mới tỏ suốt, còn chúng sanh không thể thấy biết được. Do đó người tu Phật thấy tột đến chỗ ít có này thì mới đến chỗ bản hoài của Phật muốn chỉ.

CHÁNH VĂN:

                Vô số các Phật tử
                Nghe Thế Tôn phân biệt
                Nói đặng pháp lợi đó
                Vui mừng đầy khắp thân
                Hoặc trụ bậc bất thối
                Hoặc đặng đà la ni
                Hoặc vô ngại nhạo thuyết
                Muôn ức triền tổng trì
                Hoặc có cõi đại thiên
                Số vi trần Bồ tát
                Mỗi vị đều nói được
                Pháp luân bất thối chuyển
                Hoặc có trung thiên giới
                Số vi trần Bồ tát
                Mỗi vị đều có thể
                Chuyển pháp luân thanh tịnh
                Lại có tiểu thiên giới
                Số vi trần Bồ tát
                Còn dư lại tám đời
                Sẽ đặng thành Phật đạo
                Lại có bốn, hai, ba
                Tứ thiên hạ như thế
                Số vi trần Bồ tát
                Theo số đời thành Phật
                Hoặc một tứ thiên hạ
                Số vi trần Bồ tát
                Còn dư có một đời
                Sẽ thành nhứt thiết trí
                Hàng chúng sanh như thế
                Nghe Phật thọ dài lâu
                Đặng vô lượng quả báo
                Vô lậu rất thanh tịnh
                Lại có tám thế giới
                Số vi trần chúng sanh
                Nghe Phật nói thọ mạng
                Đều phát Tâm Vô thượng   
GIẢNG:


Đây nói lại những vị trong hội chúng được lợi ích vô sanh pháp nhẫn, được triền đà la ni cho đến chuyển pháp luân bất thối v.v…, số hội chúng được lợi ích rất lớn khi nghe đến chỗ này, không phải là chỗ tầm thường, không phải là chuyện nhỏ. Đó là muốn nhắc mình chớ xem thường, phải nghe thật kỹ!

CHÁNH VĂN:

                Thế Tôn nói vô lượng
                Bất khả tư nghì pháp
                Nhiều được có lợi ích
                Như hư không vô biên
                Rưới hoa thiên Mạn đà
                Hoa ma ha mạn đà.
                Thích, Phạm như hằng sa
                Vô số cõi Phật đến
                Rưới chiên đàn trầm thủy
                Lăng xăng loạn xạ xuống
                Như chim bay liệng đáp
                Rải cúng các đức Phật
                Tiếng trời trong hư không
                Tự nhiên vang tiếng mầu
                Áo trời nghìn muôn thứ
                Xoay chuyển mà rơi xuống
                Các lò hương đẹp báu
                Đất hương quý vô giá
                Tự nhiên đều cùng khắp
                Cúng dường các Thế Tôn
                Chúng đại Bồ tát kia
                Cầm phan lọng bảy báu
                Cao đẹp muôn ức thứ
                Thứ lớp đến Phạm Thiên
                Trước mỗi mỗi đức Phật
                Tràng báu treo phan tốt
                Cúng dường nghìn muôn kệ
                Ca vịnh các Như Lai
                Từ xưa chưa từng có
                Nghe Phật thọ vô lượng
                Tất cả đều vui mừng
                Phật tiếng đồn mười phương
                Rộng lợi ích chúng sanh
                Tất cả đủ căn lành
                Để trợ tâm vô thượng.
                Phật tiếng đồn mười phương
                Rộng lợi ích chúng sanh
                Để trợ tâm vô thượng.       
GIẢNG:


Nghĩa là, hiện những tướng lành này trợ phát tâm Vô thượng Bồ đề cho mình. Những tướng đó nhắc cho mình tin chắc tâm Vô thượng Bồ đề đó nó sáng khắp, đầy khắp. Mở sáng con mắt này thì mình sẽ thấy đâu đâu cũng đều đẹp hết, đều sáng ngời hết, nên những tướng đó trợ phát tâm Vô thượng Bồ đề, chớ không phải mình chấp vào tướng đó. Khi ai nghe, tin được chỗ này, là trồng được giống Phật rồi.

CHÁNH VĂN:

Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Di Lặc đại Bồ tát: "A Dật Đa, có chúng sanh nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sanh một niệm tín giải, đặng công đức không thể hạn lượng được. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong tám mươi muôn ức na do tha kiếp tu năm pháp ba la mật: Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trừ trí huệ ba la mật, đem công đức này sánh với công đức tín giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.

GIẢNG:


Phật nói chúng sanh nào, nghe nói thọ mạng dài lâu của Phật này, mà chỉ sanh một niệm tín giải, thì đặng công đức vô hạn lượng rồi. Vì là chỗ Phật sống, chỗ thành Phật, tin được chỗ này, thì đó là nhân thành Phật, là mở tia sáng trên con đường vô minh để mình trở về quê đã bỏ từ vô thuỷ.

Đây Phật nói, người tu năm ba la mật trước mà trừ trí huệ ba la mật so với công đức tín giải này không bằng được, bởi vì sao? Bởi vì tin này là tin vào trí huệ Phật, thì những công đức tạo tác hữu vi đó không sánh kịp là dễ hiểu rồi. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác thời không có lẽ đó. Cho nên người tu hành phải lấy đây làm nhân chân thật để tu mới khế hợp quả chân thật, nghĩa là tin chắc mình có việc này, lấy đó làm nhân để tu hành, rồi tỏ ngộ được việc này, y theo đó để sống cho đến thành Phật vậy thôi, không còn đi con đường nào khác nữa. Trong kinh nói chỉ một việc này thật, có hai chẳng phải chân là đó.

CHÁNH VĂN:

Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
                Nếu người cầu huệ Phật
                Trong tám mươi muôn ức
                Na do tha kiếp số
                Tu năm ba la mật
                Ở trong các kiếp đó
                Bố thí cúng dường Phật
                Và Duyên giác đệ tử
                Cùng các chúng Bồ tát
                Đồ uống ăn báu lạ
                Thượng phục và đồ nằm
                Chiên đàn dựng tịnh xá
                Dùng vườn rừng trang nghiêm
                Bố thí như thế thảy
                Các món đều vi diệu
                Hết các kiếp số này
                Để hồi hướng Phật đạo   

Tức là tu về bố thí.

                Nếu lại gìn cấm giới
                Thanh tịnh không thiếu sót
                Cầu nơi đạo vô thượng
                Được các Phật ngợi khen

là thuộc về trì giới.

                Nếu lại tu nhẫn nhục
                Trụ nơi chỗ điều nhu
                Dầu các ác đến hại
                Tâm đó chẳng khuynh động
                Các người có được pháp
                Cưu lòng tăng thượng mạn
                Bị bọn này khinh não
                Như thế đều nhẫn được

Đây là tu nhẫn nhục.

                Hoặc lại siêng tinh tấn
                Chí niệm thường bền vững
                Trong vô lượng ức kiếp
                Một lòng chẳng trễ thôi.

Đây là tinh tấn.

                Lại trong vô số kiếp
                Trụ nơi chỗ vắng vẻ
                Hoặc ngồi hoặc kinh hành
                Trừ ngủ, thường nhiếp tâm
                Do các nhơn duyên đó
                Hay sanh các thiền định
                Tám mươi ức muôn kiếp
                An trụ tâm chẳng loạn
                Đem phước thiền định đó
                Nguyện cầu đạo Vô thượng

Đây tu về thiền định, tức là tu về năm ba la mật.

                Ta đặng nhất thiết trí
                Tận ngằn các thiền định
                Người đó trong trăm nghìn
                Muôn ức kiếp số lâu
                Tu các công đức này

Đây muốn nói các người tu năm ba la mật đó mà trừ Bát Nhã ba la mật.

                Như trên đã nói rõ
                Các thiện nam, tín nữ
                Nghe ta nói thọ mạng
                Nhẫn đến một niệm tu
                Phước đây hơn phước kia
                Nếu người trọn không có
                Tất cả các nghi hối
                Thân tâm giây lát tin
                Phước đó nhiều như thế


GIẢNG:

Người nghe thọ mạng dài lâu của Phật này được một niệm tin, không nghi hối, thì phước này nhiều hơn, tức là nhấn mạnh tin chắc việc này là gốc chơn thật.

CHÁNH VĂN:
                Nếu có các Bồ tát
                Vô lượng kiếp hành đạo
                Nghe ta nói thọ mạng
                Đây thời tin nhận được
                Các hạng người như thế
                Đảnh thọ kinh điển này
                Nguyện ta thuở vị lai
                Sống lâu độ chúng sanh
                Như Thế Tôn ngày nay
                Vua trong các họ Thích
                Đạo tràng rền tiếng lớn
                Nói pháp không sợ sệt
                Chúng ta đời vị lai
                Được mọi người tôn kính
                Lúc ngồi nơi đạo tràng
                Nói thọ mạng cũng thế
                Nếu có người thâm tâm
                Trong sạch mà ngay thiệt
                Học rộng hay tổng trì
                Tuỳ nghĩa giải lời Phật
                Những người như thế đó
                Nơi đây không có nghi
GIẢNG:


Đây nói tin nhận thọ trì điều này là có duyên sâu với đạo Vô thượng, không phải là chuyện mới có, chớ còn nghi ngờ gì nữa, đó là cái nhân lành lớn lao, trân qúi!.

CHÁNH VĂN:

Lại A Dật Đa! Nếu có người nghe đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý của lời nói đó, người này đặng công đức không có hạn lượng, có thể sanh huệ vô thượng của Như Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng dường quyển kinh, công đức của người này vô lượng vô biên có thể sanh nhứt thiết chủng trí.

GIẢNG:

Phật nói, nếu có người nghe thọ mạng dài lâu này, hiểu ý thú, tự mình tin nhận lời đó là công đức lớn rồi, mà còn vì người rộng nói rồi tự mình thọ trì, khiến người khác thọ trì, tức là chính mình rõ được tri kiến Phật đó, còn đem tri kiến Phật đó nhắc cho người khác nữa, là công đức rất lớn, đó là mở ánh sáng chánh giác ngay chính mình, và soi sáng ánh sáng đó cho nó không dứt.

CHÁNH VĂN:

A Dật Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe ta nói thọ mạng dài lâu sanh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy đức Phật thường ở núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng Bồ tát lớn và hàng Thanh Văn vây quanh nói pháp.

GIẢNG:


Nghe được thọ mạng này, tin hiểu chắc thì thấy đức Phật thường ở núi Linh Thứu cùng chúng hội vây quanh đó. Như vậy mình tin hiểu chắc chắn rồi, thì ngay đây mình thấy Phật vẫn còn đang ở núi Linh Thứu thôi, không phải đợi lùi lại 25 thế kỷ trước. Bởi tri kiến Phật đâu có xưa nay. Phật ngày xưa nói tri kiến Phật là tri kiến Phật này thôi, bây giờ mình thấy tri kiến Phật này là thấy Phật xưa chớ gì! Tức là vượt ngoài ý niệm thời gian, mà quí vị không kẹt trong ý niệm xưa nay, tướng lớn nhỏ, cao thấp của Phật đó, ngay đây mở được tri kiến Phật đó, thì hiện tại rõ Phật đang nói Pháp Hoa cho mình nghe chưa dứt. Nhưng Phật đó Phật nào? Là Phật pháp thân. Hãy nhớ lại thời gian ở trong phẩm Tùng địa dũng xuất các vị Bồ tát từ dưới đất vọt lên rồi dùng các cách ngợi khen để cúng dường Phật, thời gian đó trong kinh nói trải qua đến 50 tiểu kiếp, sau đó Phật mới nói đến thọ lượng Như Lai, rồi đến phần phân biệt công đức này. Vậy, thời gian mà các vị Bồ Tát tán thán 50 tiểu kiếp, thì mình cách Phật mới có hơn 2500 năm, rõ ràng Phật vẫn còn đang nói Pháp đó chớ mất đi đâu. Cho nên thấy Phật còn ở Linh Thứu nói pháp là thấy như vậy tin được điều đó là người tin sâu đối với đạo Vô thượng. Điểm thứ hai nữa:

CHÁNH VĂN:

Lại thấy cõi Ta bà này đất bằng lưu ly ngang liền bằng phẳng, dây vàng Diêm phù đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bằng hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thứ báu hiệp thành, chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu sắc.

GIẢNG:


Làm sao mình ở cõi Ta bà này thấy đất bằng lưu ly, thấy đâu đâu cũng vàng ròng hết? Tức mở được tri kiến Phật này thì thấy đâu đâu cũng đều thanh tịnh, ngay nơi cõi Ta bà này là Tịnh độ rồi. Bởi vì tri kiến Phật đâu có nhơ sạch, nhơ sạch là tại tâm mình. Khi thấy chính đây là Tịnh độ rồi, thì không còn có cái thấy bỏ đây đến đâu nữa. Đó là cái thấy vượt ngoài không gian, vượt ngoài thời gian,

Như câu chuyện Bà già ngộ đạo, khi ngộ đạo rồi thấy ở đâu cũng sáng ngời hết. Ngài Bạch Ẩn gạn hỏi: "Sao, còn cái hầm phân có sáng không?". Bà liền thoi ngài Bạch Ẩn nói: -Ông già này chưa ngộ!
Đây Phật nói, người mà tưởng quán được như vậy, thì đó là tướng tin sâu, nghĩa là do chỗ thực hành sâu của mình, mà mình mở được chỗ thấy như vậy, đó mới là chỗ diệu ngộ.

CHÁNH VĂN:

Và lại sau đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tùy hỉ, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc, tụng, thọ trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội đức Như Lai.

GIẢNG:

Tin hiểu tùy hỉ đó là tướng tin sâu chắc còn đọc tụng thọ trì nữa, là đang đội đức Như Lai. Đọc tụng đây là học thuộc lòng, mà học thuộc lòng tức là sống hoài trong đó không quên, chớ không phải đọc thuộc lòng từng câu, từng chữ. Thọ trì, gìn giữ như vậy tức là đầu đội đức Như Lai, lúc nào cũng thấy Phật ngồi trên đầu mình rồi, nhưng động niệm thì cách xa. Cổ Đức có câu:

                Chân tịnh giới trung tài nhất niệm.
                Diêm phù tảo dĩ bát thiên niên.

Tức là:

                Trong cõi chân tịnh vừa khởi niệm
                Diêm phù bỗng chốc tám ngàn năm.


Trong cõi chân thật thanh tịnh này, mình vừa khởi niệm thì rơi vào trong cõi Diêm phù tám ngàn năm. Vừa động niệm thì rơi vào trong sanh diệt, là cách xa rồi. Và mình hiểu ngược lại ngay đây mình chợt dừng niệm thì vượt qua tám ngàn năm. Khởi niệm là trải qua tám ngàn năm rồi, dừng niệm là không sanh, không sanh thì vượt qua tám ngàn năm. Như vậy, rõ ràng thấy Phật ở Linh Sơn dễ dàng, lòng tin vững chắc, chuyện đó Phật nói mình có thể thấy được, nhận được không phải chỉ có trong chữ nghĩa thôi.

CHÁNH VĂN:

A Dật Đa! Thiện nam tử cùng thiện nử nhơn đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường cùng bốn sự cúng dường để cúng dường chúng tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp tạo lập tăng phường cúng dường tăng, thời là đem xá lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm thiên, treo các phan lọng và các kinh báu, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống dịch, không hầu, các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm, khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng dường đó rồi.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, thời là dựng lập tăng phường, dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các cung điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỳ kheo ở nơi trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục, đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang, tất cả đồ vui đầy dẫy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ kheo tăng.

GIẢNG:


Phật nói rằng, khi Như Lai diệt độ rồi có người nghe kinh này không chê bai, lòng tùy hỉ, thì đó là tướng tin sâu sắc, giống như là đầu đội đức Như Lai, những người như vậy chẳng cần dựng tháp chùa, cất tăng phường cúng dường, tức là đã cúng dường đức Như Lai rồi. Vậy Phật bảo mình khỏi làm việc cúng dường kia phải không? Tức ngầm chỉ cúng dường này là cúng dường trên hết, chân thật, những việc cúng dường kia là việc làm hữu vi tạo tác.

Có một lần Ngài Vô Trước đi lên Ngũ Đài Sơn tìm Bồ Tát Văn Thù. Ngài gặp ông già, chính là hóa thân của Bồ Tát mà Ngài Vô Tước không biết. Khi tiễn về, ông già mới khai thị cho Vô Trước bài kệ rằng:

                    Nhứt niệm tịnh tâm thị Bồ Đề
                    Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp
                    Bảo tháp cứu tận toái vi trần
                    Nhất niệm tịnh tâm thành chánh giác.

Tức là:
                    Một niệm tịnh tâm ấy Bồ đề
                    Hơn tạo hằng sa tháp bảy báu
                    Tháp báu cuối cùng nát thành bụi
                    Một niệm tịnh tâm thành chánh giác.

Hóa thân Bồ Tát Văn Thù dạy rằng: ngay một niệm tâm mình thanh tịnh đó là Bồ đề rồi khỏi phải cầu đâu khác.

Như vậy còn hơn tạo hằng sa tháp bảy báu, vì tháp báu đó dù kiên cố mấy nhưng trải qua thời gian rồi cũng nát thành bụi, cũng phải hư hoại. Còn chính ngay một niệm tịnh tâm đó là cái gốc thành chánh giác. Từ đó thẳng tới thành đạo Vô thượng Bồ đề, không mất. Tức nhấn mạnh mình phải nhận ra chỗ này để sống, không chấp trên hình tướng kia, chớ không bảo mình đừng làm việc kia.

Mình sống được như vậy gọi là chân thật cúng dường Phật. Công đức này là công đức vô lậu, vô vi, những công đức kia không sánh kịp.

CHÁNH VĂN:

Cho nên ta nói: Sau khi ta diệt độ, nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, hoặc bảo người khác chép, cúng dường quyển kinh thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập tăng phường cúng dường chúng tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí, trì giới, công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô biên.

GIẢNG:


Phật nói như vậy, sợ mình chấp một bên rồi bỏ hết, mọi việc kia không cần phải làm. Cho nên đây Phật nói lại: "Huống nữa người hay thọ trì kinh này gồm tu bố thí, trì giới", thì công đức của người này rất thù thắng, vô lượng vô biên. Tức là được như vậy rồi còn làm việc kia nữa thì quá hay.

CHÁNH VĂN:

Thí như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên, dưới vô lượng vô biên, công đức của người đó cũng lại như thế vô lượng vô biên mau đến bực thiết chủng trí. Nếu có người đọc tụng, thọ trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập tăng phường cúng dường khen ngợi chúng Thanh Văn tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi khen mà ngợi khen mà ngợi khen công đức của Bồ tát.

Lại vì người khác dùng các món nhơn duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, lại có thể thanh tịnh trì giới cùng người nhu hòa mà chung cùng ở, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thiền đặng các món định sâu, tinh tấn mạnh mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí sáng, giỏi gạn hỏi đáp.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ các thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng kinh điển này lại có các công đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo tràng gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi cội đạo thọ.

GIẢNG:


Tin nhận rồi còn tu hành các ba la mật, làm các công đức là hạnh và giải có đủ thì đảm bảo gần Vô thượng bồ đề, sắp thành Phật, chuyện đó dễ hiểu rồi.

Chú ý đã đến đạo tràng, gần đạo vô thượng, đó là đạo tràng gì? Đạo tràng là chùa này, chùa kia phải không? Đây đạo tràng chính là tâm thanh tịnh đó thôi. Còn đạo Vô thượng Bồ đề chính là tâm giác ngộ rốt ráo chớ không gì khác, khi mình mở được tri kiến Phật, rõ được pháp thân thường trụ, thì chính chỗ đó là chỗ thành Phật tin chắc, không nghi. Gần đạo là chỗ đó.

CHÁNH VĂN:

A Dật Đa! Chỗ của thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật.

GIẢNG:

Người được công đức như vậy, hoặc đi, hoặc đứng, hay ngồi, nằm đều nên xây tháp. Nghĩa là ngay trong mọi cử chỉ, mọi hành động của người đó đều có ánh sáng tri kiến Phật, mà có ánh sáng tri kiến Phật là có pháp thân trong đó rồi, nên phải xây tháp cúng dường. Xây tháp cúng dường là ngầm chỉ phải hết lòng cung kính, để sống trở về với ánh sáng đó, không thể bỏ qua một chỗ nào trong mọi hành động, mọi cử chỉ, chỗ nào cũng là chỗ để mình sống trở về với ánh sáng chân thật đó. Nếu có chỗ nào mình bỏ qua thì chỗ đó là chỗ mê. Mà được như vậy thì bất cứ chỗ nào cũng là chỗ cho mình sáng đạo. Cho nên nghe tiếng chim kêu mình cũng sáng được, đi vấp ngã mình cũng sáng được, không bỏ sót chỗ nào hết.

CHÁNH VĂN:

Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                Sau khi ta diệt độ
                Hay phụng trì kinh này
                Người đó phước vô lượng
                Như trên đã nói rõ
                Đó thời là đầy đủ
                Tất cả các cúng dường
                Dùng xá lợi xây tháp
                Bảy báu để trang nghiêm
                Chùa chiền rất cao rộng
                Nhỏ lần đến Phạm Thiên
                Linh báu nghìn muôn ức
                Gió động vang tiếng mầu
                Lại trong vô lượng kiếp
                Mà cúng dường tháp đó
                Hoa, hương các chuỗi ngọc
                Thiên y các kỹ nhạc
                Thắp đèn dầu nến thơm
                Quanh khắp thường soi sáng
                Lúc đời ác mạt pháp
                Người hay trì kinh này
                Thời là đã đầy đủ
                Các cúng dường như trên.   
GIẢNG:


Đây nói rằng, người trì kinh Pháp Hoa, sống với tri kiến Phật này là đầy đủ các thứ cúng dường đó, tức là muốn nhắc mình mở sáng tri kiến Phật sống được trong đây, là điều căn bản không thể quên.

CHÁNH VĂN:

                Nếu hay trì kinh này
                Thời như Phật hiện đại
                Dùng ngưu đầu chiên đàn
                Dựng tăng phường cúng dường
                Nhà ba mươi hai sở
                Cao tám cây đa la
                Đồ ngon y phục tốt
                Giường nằm đều đầy đủ
                Trăm nghìn chúng nương ở
                Vườn rừng các ao tắm
                Chỗ kinh hành ngồi thiền
                Các món đều nghiêm tốt
                Nếu có lòng tin hiểu
                Thọ trì, đọc tụng biên
                Nếu lại bảo người biên
                Và cúng dường kinh quyển
                Rải hoa hương, hương bột
                Dùng tu mạn, chiêm bặc
                A đề mục da đà
                Ướp dầu thường tốt đó
                Người cúng dường như thế
                Đặng công đức vô lượng
                Như hư không vô biên
                Phước đó cũng như thế   
GIẢNG:


Tức là mình thọ trì và nhắc nhở cho người khác, khiến tri kiến Phật này sáng mãi ở trên thế gian, không cho gián đoạn, thì công đức này vô lượng vô biên không tính kể hết.

CHÁNH VĂN:
                Huống lại trì kinh này
                Gồm bố thí, trì giới
                Nhẫn nhục ưa thiền định
                Chẳng sân, chẳng ác khẩu
                Cung kính nơi tháp miếu
                Khiêm hạ các Tỳ kheo
                Xa lìa tâm tự cao
                Thường nghĩ suy trí tuệ
                Có gạn hỏi chẳng sân
                Tuỳ thuận vì giải nói
                Nếu làm được hạnh đó
                Công đức chẳng lường được

Trì kinh này mà còn thực hành sáu ba la mật nữa thì công đức khó nói hết được.

                Nếu thấy pháp sư này
                Nên công đức như thế
                Phải dùng hoa trời rải
                Ao trời trùm thân kia
                Đầu mặt tiếp chơn lạy
                Sanh lòng tưởng như Phật
                Lại nên nghĩ thế này
                Chẳng lâu đến đạo thọ
                Đặng vô lậu vô vi
                Rộng lợi các người trời
                Chỗ trụ chỉ chỗ kia
                Kinh hành hoặc ngồi nằm.
                Nhẫn đến nói một kệ
                Trong đây nên xây tháp
                Trang nghiêm cho tốt đẹp
                Các món đem cúng dường
                Phật từ ở chỗ này
                Thời là Phật thọ dụng
                Thường ở nơi trong đó
                Kinh hành và ngồi nằm.
GIẢNG:


Tức là được những công đức này thì sẽ gần đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong chỗ đi đứng ngồi nằm của người đó, nên xây tháp cúng dường, coi như Phật đang hiện tại, Phật đang thọ dụng vậy. Đây kết lại, tại sao nghe thấy thọ mạng dài lâu này được những công đức lớn như vậy? Bởi vì chính đây là chỗ sống của chư Phật, là chỗ cội gốc mê lầm của tất cả chúng sanh. Sở dĩ chúng sanh mà đi vào trong sanh tử luân hồi là bị mê mất chỗ này. Bởi một niệm bất giác, quên nguồn sống chân thật này gọi là vô minh, mà đi vào trong sanh tử, quên đường về. Nhưng ở đây đang sống trong sanh tử, đang lang thang đó, nguồn sống này có mất không? Cũng ngầm ẩn trong đó thôi, không mất đâu hết. Quý vị kiểm lại xem, mình bắt đầu từ lúc mới mê cho đến bây giờ đây thì sanh tử bao nhiêu lần? Không biết tính bao nhiêu kể, mà sao vẫn còn ngồi đây? Sao không tiêu hoại theo sanh tử? Trong đó có khi vào địa ngục, có khi làm con này con kia. Nhưng bây giờ vẫn có mặt đây, thì rõ ràng có cái gì trong đó không mất. Nếu chỉ cái thân sanh diệt này thôi, thì nó tiêu mất từ lâu rồi. Như vậy để mình tin nhận điều này là chân thật, trong thân sanh diệt có tuổt thọ Như Lai vô cùng vô tận. Tại sao mình không sống với tuổi thọ đó sướng hơn không? Nhận được như vậy là mình bắt đầu sống trở về, mình sẽ là một vị Phật, công đức lớn là chuyện rõ ràng. Có lần vị tăng hỏi Thiền Sư Thọ Sơn:

- Tuổi thọ của Thọ Sơn là bao nhiêu?

Thiền Sư Thọ Sơn đáp:

- Bằng với hư không.

Ông tăng hỏi:

- Còn hư không bao nhiêu tuổi?

Thọ Sơn đáp:

- Bằng với Thọ Sơn.

Đó là tuổi thọ Như Lai không tính kể. Ngay thân sanh diệt này Ngài thấy rõ có thân vô lượng tuổi đồng với hư không.

Vậy quý vị nghe được tuổi thọ Như Lai, nghe được phẩm Phân Biệt Công Đức này, thì thấy mình có chút nào lợi ích chưa? Có niềm vui là có lợi ích rồi. Mong rằng tất cả những người nghe đây đều nhận được tuổi thọ vô lượng của Như Lai để sống, chớ không sống theo tuổi thọ có ngắn có dài này, thì đó là trên con đường mình trở về quê hương cũ của mình từ vô thuỷ.
 

[ Quay lại ]