headertvtc new


   Hôm nay Thứ sáu, 29/03/2024 - Ngày 20 Tháng 2 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Mùa Xuân Miên Viễn

I. THẾ GIAN KẸT TRONG THỜI GIAN VÔ THƯỜNG
Nói mùa xuân miên viễn là muốn gợi lại một cái gì mà người người đang bỏ quên. Bởi người thế gian luôn sống trong tâm vô thường, nên thấy nhìn cái gì cũng theo chiều vô thường và buồn vui theo ngoại cảnh.

Chúng ta thường tán tụng xuân về hoa nở, chim ca hót, ca ngợi tuổi xuân đẹp như thơ v.v…, nhưng rồi một lúc xuân cũng đi qua và nhớ lại liền tiếc nuối! Năm mới thì chúc tụng, mừng tuổi, ngờ đâu lên một tuổi là mất một năm, là bớt đi một tuổi thọ, nghĩa là rút ngắn bớt thời gian mình có mặt trên đời.

Thiền sư Thiên Tùng có hai câu thơ nói về xuân:

Kim triêu tận đạo thiêm nhất tuế,

Ngô đạo như kim giảm nhất niên.

Nghĩa:

Sáng nay người bảo thêm một tuổi,

Tôi nói ngày này bớt một năm.

Lẽ thật là như thế. Bởi con người chúng ta luôn sống trong tưởng tượng quá nhiều hơn sự thật. Bảo xuân về, nhưng xuân ở đâu mà về? Rồi đi đâu? Chỉ là thời tiết đến thì hoa nở, nở xong thì tàn, một dòng trôi chảy liên tục vậy thôi. Chúng ta lại chặn ngang một đoạn, gán cho nó cái tên “mùa xuân” để tạm vui với nhau. Song mùa xuân có đến, có đi, đó là mùa xuân của sự vô thường sinh diệt, nó gạt con mắt phàm vui buồn trong đó; với người hiểu đạo thì đâu thể lầm mê!

Với người hiểu đạo, phải thấy cái gì cao siêu hơn, không thể giam mình trong cái tầm thường hư ảo này!

Thượng Sĩ Tuệ Trung có bài kệ nói về: KHUYÊN ĐỜI VÀO ĐẠO:

Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,

Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.

Vinh hoa khẳng cố nhất trường  mộng,

Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.

Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,

Ái hà xuất một đẳng phù âu.

Phùng trường diệc bất mô lai tỷ,

Vô hạn lương duyên chỉ ma hưu.

Nghĩa:

Thời tiết xoay vần xuân tới thu,

Tuổi già vùn vụt phủ lên đầu.

Giàu sang nhìn lại một cơn mộng,

Năm tháng ôm suông muôn hộc sầu.

Nẽo khổ luân hồi vành xe chuyển,

Sông yêu chìm nổi tợ bọt xao.

Gặp dịp chẳng liền sờ lên mũi,

Thôi thế duyên lành bao thuở nào!

Đây là Thượng Sĩ ân cần nhắc nhở mọi người, chớ đắm mê theo cuộc vô thường của thế gian này, say đắm ở trong đó mà tạo tác lăng xăng, rốt cuộc chỉ ôm khổ, ôm sầu, tay không cũng hoàn tay không. Theo đó, tức là theo hòn bọt nổi mà lên xuống, chìm nổi trong vòng luân hồi, quên mất biển cả thênh thang. Ngay đây đã gặp dịp đánh thức cho mình, phải tỉnh lại, sờ lên mũi xem! Một lẽ thật muôn thuở ngàn đời vẫn hằng sẵn đó mà không chịu nhận, lại nhớ đâu đâu, đuổi theo bắt bóng tìm bọt, cuối cùng trả về cho KHÔNG! Đành bỏ qua duyên lành hy hữu này sao?

Mã Tổ một hôm cùng Hoài Hải đi dạo, thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ liền chỉ đó hỏi:

- Đó là cái gì?

Hoài Hải thưa:

- Bầy vịt trời.

Mã Tổ hỏi:

- Bay đi dâu?

Hoài Hải thưa:

- Bay qua.

Mã Tổ bèn nắm mũi Hoài Hải vặn mạnh, đau quá Sư la lên. Mã Tổ bảo:

- Lại nói bay qua đi!

Ngay câu đó, Hoài Hải tỉnh ngộ.

Hoài Hải ban đầu theo thường tình cứ lo nhớ bầy vịt trời, quên mất chính mình đang hiện hữu. Mã Tổ thấy thấu được điểm ấy nên nhéo mũi đánh thức Sư trở lại. Hoài Hải đau điếng la lên, mới hay lẽ thật từ xưa vẫn sờ sờ đó thôi, chưa từng thiếu vắng bao giờ! Có bay đi đâu? Chớ quên mình theo vật đành chịu lang thang rất đáng thương!

II. XUÂN TRONG TỰ TÁNH

Quả thật, ai ai cũng đều có một quê hương sáng ngời với mùa xuân muôn thuở, chưa từng có đến đi, nở tàn, thay đổi theo thời gian mà đành bỏ quên một cách đáng thương! Thiền sư thấy được lẽ thật ấy nên dùng mọi phương tiện đánh thức chúng ta sống lại chỗ này, chính đó là nguồn sống vĩnh viễn không cùng tận.

Thiền sư Tiên Đỗ hiệu Vô Kiến có bài thơ Ở NÚI:

Trang Sanh hữu ý năng tề vật,

Ngã dã vô tâm dữ vật tề.

Độc tọa bồ đoàn xuân nguyệt noãn,

Nhất thanh u điểu cách song đề.

Nghĩa:

Trang Chu có ý hay tề vật,

Ta chỉ vô tâm cùng vật tề.

Độc tọa bồ đoàn ngày xuân ấm,

Một tiếng chim kêu xa vọng về.

Nghĩa là, Trang Chu đem tâm muốn an bài vật, khiến cảnh vật theo ý mình; đâu biết rằng, càng khởi tâm thì cảnh càng động, càng loạn, càng sai biệt thôi. Vừa khởi tâm tề vật, là vật đã sai biệt rồi! Chỉ tự vô tâm thì cảnh tự an bài, vật tự tề, núi tự là núi, sông tự là sông.

Ngày xuân ấm, ngồi một mình trên bồ đoàn, chợt một tiếng chim kêu cách cửa sổ, từ xa vọng về! Xa vọng về đâu? Tức vọng về “Con Người Mãi Xuân” đang ngồi đó!

Ô kìa! Bên song cửa sáu căn thấy nghe hiểu biết, “Người ấy” đang ngồi đây! Người này không có trẻ già, đâu lo còn mất? Có Ai đã nghe tiếng chim xa vọng về đó chăng? Tuy nhiên, trong đây vừa có “Ý” liền sai.

Đến Thiền sư Nhân Dũng ở Bảo Ninh thì nhân ngày tết, Sư dạy chúng:

Tạc nhật khứ niên khứ,

Kim nhật kim niên lai.

Khứ niên khứ bất khứ,

Kim niên lai bất lai.

Biến dã doanh xích tuyết,

Đại địa vong tiêm ai.

Vô danh vô tự nhân,

Cử mục liêu bồi hồi!

Nghĩa:

Hôm qua năm cũ đi,

Ngày nay năm mới đến.

Năm cũ đi chẳng đi,

Năm mới đến chẳng đến.

Khắp đồng trắng đầy tuyết,

Cõi đất bặt mảy trần.

Người không tên không chữ,

Đưa mắt nhìn bồi hồi.

Năm nào là năm cũ? Năm nào là năm mới? Chỉ cách có một đêm, sáng ra liền chia thành năm cũ, năm mới. Quả là sống trong ảo tưởng quá nhiều! Rồi tại sao năm cũ đi chẳng đi? Năm mới đến chẳng đến? Vì đến đi đó là cái thấy ảo tưởng theo thời gian vô thường, nhưng sự thật ngay trước mắt đây, vốn hiện bày một màu sáng ngời, không một hạt bụi che. Trong đó, có “người không tên, không chữ” đang đưa mắt nhìn bồi hồi kia kìa! Năm cũ, năm mới làm sao đến được chỗ này! Ai thấy chăng? Song, vì sao mà người ấy nhìn bồi hồi? Bởi vì, vẫn ngồi đó mà không ai ngó tới! Người người cứ lo đuổi theo hoa nở, hoa rụng để tự vui buồn theo đó, còn người chủ của mùa xuân bất diệt vẫn ngồi đây mà không ai hay. Thật quá phũ phàng! Vậy có ai biết người đó ở đâu chăng?

Đây, Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ chỉ thêm cho thấy, Sư thượng đường bảo:

- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một giàn xiếc với người gỗ máy, bèn đến gần trước xem, hoặc thấy đẹp đẽ lạ kỳ, hoặc thấy rất xấu xí, chuyển động khi đi khi ngồi, xanh vàng đỏ trắng. Thấy rõ mọi thứ xong, đến khi xem kỹ lại thì vốn là tấm màn vải xanh bọc lại, bên trong có người. Sơn tăng nhịn không nổi, liền bước tới hỏi: - Ông tên họ gì? Y bảo: Ông Hoà thượng này, thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?

Đại chúng! Sơn tăng bị y hỏi một câu đành câm miệng không lời có thể đáp, không  lý có thể bày. Có ai vì Sơn tăng  nói được chăng?

Người nào ở trong tấm vải  bọc lại? Tại sao hỏi tên họ thì bị quở? Ai thấy được người ấy chưa? Hãy chú ý nghe kỹ: “Thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?” Ngay trong thân hiện tại đây, nhận thấy là xong, khỏi hỏi tên họ, tuổi tác!

Hòa thượng Thạch Đầu từng bảo Duy Nghiễm:

Từ lâu chung ở chẳng biết tên,

Đi đứng theo nhau cứ mặc tình.

Chư thánh từ xưa còn chẳng biết

Kẻ phàm thô vội đâu thể rành!

Âm:

Tùng lai cộng trụ bất tri danh

Nhậm vận tương tương chỉ ma hành

Tự cổ thượng hiền du bất thức,

Tạo thứ phàm lưu khởi khả minh.

Cái gì tùy thời luôn luôn theo sát bên mình trong mọi cử chỉ, hành động chưa từng tạm rời? Tại sao từ lâu xa vẫn ở chung với nó mà không biết tên nó? Có phải đó là người không tên không chữ đang nhìn bồi hồi chăng? Nó vốn không tên, nếu biết tên nó, lại thành kẻ thứ hai rồi! Chỗ này chư thánh còn chẳng biết kia mà! Đơn giản, vì đây không phải là cái bị biết. Do đó nếu đứng bên ngoài mà suy luận thì không  bao giờ cảm thông được.

Cần phải một phen thẳng vào sống trong ấy. Song, muốn sống chỗ này, phải dám quên cái vô thường kia, và bừng dậy ngay trong vô thường vẫn hằng thường, không sanh niệm thứ hai chen vào thì hiện tiền sáng ngời không nghi.

Thiền sư Chân Tịnh có bài kệ:

Lão dã tu tri bất lão thân,

Đồng hành đồng tọa hữu tinhthần

Tuy nhiên vô tướng vô dung mạo

Năng vị quần sanh tác chủ ông.

Nghĩa:

Già đó nên biết thân chẳng già.

Đi đứng nằm ngồi vẫn theo ta

Tuy nhiên không tướng, không hình mạo

Làm chủ muôn loài vốn từ xưa.

Thiền sư Chân Tịnh cũng nhắc nhở chúng ta, trong cái thân trẻ già này, có cái chẳng già, nó vẫn hiện hữu trong mọi cử động tới lui, qua lại hằng ngày đây. Tuy nó không có hình dáng gì để thấy như cái thân già trẻ, nhưng chính đó là gốc của muôn vật, không cái gì trên thế gian này thoát ra khỏi nó. Nhưng lạ thay! Người người lại bỏ quên nó không ngó ngàng tới! Ồ! Người ấy đang bồi hồi nhìn chúng ta kìa!

Tổ Lâm Tế bảo: “Ngay cục thịt đỏ au đó, có con người chân thật không ngôi thứ, thường ra vào nơi cửa mặt chúng ta đây.” Tức ngay hiện tại, thấy nghe tất cả mà vẫn nguyên vẹn là thấy nghe, không xen lẫn cái gì, ai không có? Sống trở lại với con người này thì làm chủ trong cuộc vô thường, còn gì vui sướng hơn? Mùa xuân miên viễn không năm tháng là đó chứ gì?

Động Sơn sắp tịch, có vị tăng hỏi:

- Hòa thượng bệnh, có cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:

- Có.

Tăng hỏi:

- Cái chẳng bệnh có thấy Hòa thượng chăng?

Sư đáp:

- Lão tăng xem y có phần.

Tăng hỏi:

- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sư đáp:

- Khi lão tăng xem, chẳng thấy có bệnh.

Khi bệnh, nhìn kỹ xem cái bệnh diễn ra như thế nào? Thấy được cái bệnh, cái đó đâu thuộc bệnh? Đâu bị vô thường chi phối? Nên nói: “Xem y có phần”. Bốn đại năm ấm đâu ngăn che được nó. Hiện tại có ai bị ngăn không có thấy nghe chăng? Tuy nhiên tối kị sanh tâm động niệm. Vừa động niệm liền rơi trong bệnh, chớ bảo là không dính dáng.

Đến Thiền sư Vạn Hạnh thì sự thịnh suy vô thường hiện trong con mắt Sư như sau:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:

Thân như điện chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn

Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,

Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.

Với Thiền sư lòng vẫn bình thản trước sự thịnh suy của cuộc đời. Nhưng tại sao Thiền sư không sợ hãi trước cuộc thịnh suy? Vì Sư thấy rõ thân không thật, cảnh sẽ nương vào đâu để lập? Thịnh với ai? Suy với ai? Sư thấy rõ thịnh suy tợ hạt sương buổi sớm đọng trên đầu ngọn cỏ, không có gì quan trọng so với con người bất tử kia. Nếu gặp thịnh liền vui, gặp suy liền buồn, đó là vui buồn theo duyên, không có chủ, cần nên nhớ!

III. NIỀM VUI CHÂN THẬT

Như vậy nói mùa xuân miên viễn là ngầm chỉ cái gì? Tức ngầm chỉ một niềm vui chân thật, vui mãi không mất, không thuộc sanh diệt. Đó là niềm vui không có thời gian. Nói thẳng là, niềm vui sống được trong tự tánh, niềm vui làm chủ trở lại chính mình.

Hòa thượng Thủy Lạo từng bảo trong chúng: “Ta từ khi bị cái đạp của Mã Tổ đến nay cười mãi không thôi.” Đó là niềm vui sống được trong cái chân thật. Nếu ngay khi bị đạp đó mà chợt nhớ đến cái ta này, hẳn không thể có đứng dậy vỗ tay cười to (Sư hỏi Mã Tổ: - Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang? Mã Tổ liền nhắm ngay ngực tống cho một đạp té nhào. Sư liền đại ngộ, đứng dậy cười to ha hả). Chính lúc đó, Sư quên mất cái Ta này, cũng không nhớ cái đạp luôn, mới chợt nhận ra niềm vui bất diệt ấy ở ngay nơi mình từ lâu.

Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam Nhạc sai vị tăng đến thăm dò Mã Tổ và dặn:

- Đợi y thượng đường, chỉ hỏi: “Làm cái gì?”, y trả lời thế nào ông hãy ghi nhớ về thuật lại cho ta nghe!

Vị tăng liền đến chỗ Mã Tổ làm đúng theo lời Sư chỉ dạy. Mã Tổ liền bảo:

- Từ loạn Hồ về sau ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối.

Đây là Mã Tổ nói lên niềm vui trở về nhà, hết còn lang thang tìm kiếm xin ăn bửa đói bửa no. Chính đó là chỗ an ổn đời đời, không ai có thể xâm phạm được. Các ngài là người, các ngài có; chúng ta cũng là người thì chúng ta cũng có đâu thiếu! Vậy sao chúng ta không chịu sống trong ấy, mà đành chịu giam mình trong cuộc luân hồi sanh tử khổ đau?

Hòa thượng Vân Cái có bài kệ nói lên chỗ sống chân thật ấy:

Nhất niên xuân tận nhất niên xuân,

Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân.

Thiên hiểu bất nhân chung cổ động,

Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân.

Nghĩa:

Một năm xuân trọn một năm xuân,

Hoa nội cỏ đồng tươi mấy lần.

Trời sáng chẳng do chuông trống động,

Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.

Đến đây, với Thiền sư Vân Cái thì thấy lúc nào cũng là xuân, khắp nơi đâu đâu cũng là xuân, không còn phân biệt mới cũ. Đó là mùa xuân từ trong tự tánh mà thấy, không do tạo tác từ bên ngoài, không do cái gì làm nên. TÂM XUÂN thì thấy cái gì cũng xuân. Ai bảo người tu là bi quan yếm thế?

IV. LÀM SAO THẤY ĐƯỢC NIỀM VUI NÀY?

Đã biết có niềm vui bất diệt ấy, nhưng làm sao nhận thấy, chẳng lẽ chỉ nói suông sao?

Đây, Thiền sư Thử Am chỉ cho chúng ta thấy qua bài kệ:

Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý,

Phiến vân qui động bổn vô tâm.  

Nhân sanh nhược đắc như vân thủy,

Thiết thọ khai hoa biến giới xuân.

Nghĩa:

Nước tuôn xuống núi nào có ý,

Mây bay về động vốn vô tâm.

Người đời nếu được như mây nước,

Cây sắt trổ hoa khắp cõi xuân.

Nếu tâm chúng ta được như mây nước, đi qua tất cả mà không lưu lại dấu vết gì, không bám dính cái gì, thì: “cây sắt trổ hoa khắp cõi xuân”, khỏi tìm đâu khác. Nói theo kinh Kim Cang là: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”, đi qua tất cả sáu trần mà không dừng trụ ở bất cứ trần nào, không đứng lại ở bất cứ chỗ nào, thì tâm thênh thang có gì phiền não? Chính đó là sống trở lại “tâm thể tinh khôi”, lúc nào cũng mới mẻ sáng ngời, chỗ nào cũng  có niềm vui bất diệt đó.

Cho nên Thiền sư Thiền Lão đáp vua Lý Thái Tông hỏi:

- Hằng ngày Hòa thượng làm gì?

Sư đáp:

- Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.

(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Chỗ sống hằng ngày của Thiền sư là như thế. Tâm đã thanh tịnh sáng suốt thì thấy cái gì cũng thanh tịnh sáng suốt, cũng lộ bày chân thật đó, chỗ nào mà chẳng xuân? Song vừa có “ý” xen vào liền hết xuân! Liền đó Lưu Thần, Nguyễn Triệu phải trở về nhân gian thôi!

Tương truyền ngày xưa có hai chàng học trò tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu nhân ngày tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5) đi hái thuốc, bị lạc đường đến động Thiên thai gặp Tiên nữ và kết duyên cùng Tiên nữ. Nhưng một hôm, đang ở trên cảnh tiên vui sướng bỗng chợt nhớ nhà quá, rồi một mực đòi về. Tiên nữ biết hai chàng lòng trần chưa dứt không thể ép được, nên đưa cả hai về trần thế. Song, khi hai chàng về đến nơi thì hỡi ôi, cảnh vật đều biến đổi khác lạ, quê xưa không còn nữa, người thân đều chết cả, không người quen biết! Hai chàng buồn bã lại nhớ đến cảnh tiên, tìm đường muốn lên đó để gặp tiên, nhưng than ôi, cảnh tiên đâu không thấy, cuối cùng lạc lối, đành chịu chết bỏ xác ở rừng sâu!

Cho thấy, dù người đang ngồi trong cảnh tiên, vẫn không sống được trong ấy, là vì sao? Lỗi tại ai? Cảnh đâu có bỏ người hay lựa người. Chỉ tại người tự sanh tâm cách biệt!

Trong khi đó thì:

Hoa lưu động khẩu ưng trường tại.

Nghĩa là:

Mãi nơi cửa động hoa còn đó.

Hoa vẫn còn mãi đó! Vẫn nở luôn nơi cửa động nhưng người còn động niệm nhớ trần gian nên không thấy. Chỉ cần ngay đây, ai đó tự mở mắt ra xem, thì, ô kìa! Hoa nở ngay trong mắt mình! Vui sướng xiết bao! Bỏ qua, rồi đi tìm là đành chịu chết! Có thật đau đớn chăng?

V. TÓM KẾT

Người nhận được niềm vui chân thật này là con đường trở lại quê xưa. Sống được niềm vui này là làm chủ trở lại trong cuộc vô thường sanh tử, từ đó có hiệu dụng thắng phiền não, đau buồn, vì đã có mùa xuân miên viễn nơi cố hương. Cũng từ đây, người tỉnh ngộ hết chạy đuổi tìm theo cái hư dối mà ngồi thẳng ngay tại quê nhà thưởng xuân, còn gì vui sướng hơn? Tuy nhiên, muốn được như thế, phải quên cái TA sanh diệt này, phải dám BUÔNG!

Kinh Niết Bàn có nhắc chuyện Tiên nhân vì nửa bài kệ mà hy sinh thân mạng. Tức Phật khi còn tu Bồ tát hạnh, làm vị Tiên nhân ở trong núi sâu, trọn ngày hành đạo, muốn tìm cầu kinh điển đại thừa mà không nghe biết ở đâu có. Nhân vị Tiên ấy đang ngồi thiền tư duy, cảm đến trời Đế Thích hiện xuống hóa làm một quỷ La Sát đến bên động dùng tiếng trong trẻo đọc nửa bài kệ:

Chư hành vô thường,

Thị sanh diệt pháp

Nghĩa:

Các hành vô thường,

Là pháp sanh diệt.

Vị Tiên nghe được, liền xuống khỏi chỗ ngồi, đi ra ngoài nhìn khắp nơi tìm xem ai đọc nửa bài kệ đó, thì thấy một hình tướng ghê sợ, đầu tóc rối bù, mặt xanh như chàm, răng nanh lòi ra, thân to, bụng đói teo nhỏ. Vị Tiên bèn hỏi:

- Phải ông vừa đọc hai câu kệ vừa rồi chăng?

La Sát đáp:

- Chính tôi đọc.

Vị Tiên nói:

- Xin ông đọc tiếp luôn hai câu cuối, tôi sẽ đền ơn cho.

La Sát nói:

- Bụng tôi đang đói mấy ngày, không còn sức để đọc tiếp.

Vị Tiên hỏi:

- Thức ăn của ông là gì?

La Sát nói:

- Thịt tươi của người và uống máu nóng, nếu ông có thể xả thân cho tôi ăn, tôi sẽ nói cho.

Vị Tiên nghĩ: - “Nếu xả thân cho vị này ăn thì lấy gì để nghe pháp?” Bèn nghĩ ra kế, xin La Sát hãy viết bài kệ lên đá, Ngài ở trên cây cao nhìn xuống đồng thời gieo thân mình cho ăn.

Như thế, La Sát viết hai câu tiếp:

Sanh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

Nghĩa:

Sanh diệt diệt rồi,

Tịch diệt là vui.

Vị Tiên đang nhảy xuống, La Sát đỡ lấy thân của vị Tiên, hiện lại nguyên hình trời Đế Thích, tán thán:

- Lành thay! Ngài sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin chớ quên độ tôi!

Trong đây, tại sao chỉ có hai câu kệ mà bắt phải hy sinh thân mạng? Hy sinh thân mạng rồi, lấy gì để nghe? Đó là một thâm ý! Thân này vốn thuộc các hành vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt chứ gì! Muốn nghe nhận được đến “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” thì phải dám BUÔNG cái TA sanh diệt này, mới nghe được “Tịch diệt là vui” kia! Còn quá bám víu, quá luyến tiếc cái Ta không dám buông, thì đừng mong nghe được lời vi diệu kia. Vì vậy Tiên nhân buông xả thân mạng này, liền được thấy “Tịch diệt là vui”! Chỗ này dù lý luận hay thế mấy cũng không tới được, chỉ phải một phen chứng nghiệm thôi.

Để tóm tắt ý nghĩa trên, xin dẫn bài kệ của Thiền sư Tư ở Nột Đường:

Xuân tuyết mãn không lai,

Xúc xứ thị hoa khai.

Bất tri viên lý thụ,

Na cá thị chân mai?

Nghĩa:

Tuyết xuân đầy trời đến,

Trúng đâu hoa nở đó.

Chẳng rõ cây trong vườn,

Gốc nào là mai thật?

Tức là hơi xuân đã sẵn khắp mọi nơi, mọi chỗ, đụng đến là hoa nở ngay đó thôi. Nhưng không biết trong đây có cây nào là mai thật chăng? Đã có, tại sao còn chưa nở? Có đáng thương, đáng buồn chăng?

Hy vọng mỗi cây thật trong đây đều trúng được “hơi xuân bất diệt” này!

Ồ! Hoa nở rồi đây!

[ Quay lại ]