headertvtc new


   Hôm nay Thứ bảy, 20/04/2024 - Ngày 12 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

AM CHỦ DIỆU PHỔ TÁNH KHÔNG

Ở Hoa Đình

Sư người Hán Châu, nương Thiền sư Tử Tâm đã lâu được ấn chứng. Sư đi đến sông Tú theo nếp Hoa Đình Thuyền Tử, cất một chiếc am tranh ở đồng Thanh Long, thổi sáo sắt để tự vui. Sư có làm nhiều phú, vịnh, người được đều quí như của báu. Bài Sơn Cư:

        Tâm pháp song vong du cách vọng
        Sắc trần bất nhị thượng dư trần
        Bách điểu bất lai xuân hựu quá
        Bất tri thùy trị trụ am nhân.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ HUỆ PHƯƠNG

Ở Hòa Sơn

Sư họ Lung quê ở Lâm Giang.

Sư dạy chúng: Trước dụng sau chiếu cốt nghiệm tác gia, trước chiếu sau dụng chẳng còn hình bóng, chiếu dụng đồng thời vách đứng ngàn nhẫn, chiếu dụng chẳng đồng thời căn trần nên soi. Cổ nhân dùng bốn chuyển ngữ này để nghiệm Thiền tăng trong thiên hạ. Nếu không phải người đủ con mắt chân chánh liễu ngộ thấu đáo khó bề nương tựa. Ngày nay vì quí vị nêu ra rõ ràng rồi vậy. Lại hiểu rõ hay chăng? Nếu hiểu rõ rồi, đáng gọi chẳng động mảy tơ chóng lên giác địa.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ HUỆ HUY TỰ ĐẮC

Ở Tịnh Từ Hàn Châu

Sư họ Trương, quê ở Hội Khê, thuở nhỏ Sư nương theo thầy Đạo Ngưng ở Trừng Chiếu thế phát và thọ giới cụ túc. Năm hai mươi tuổi, Sư đến yết kiến Chơn Yết ở Trường Lô có sở chứng chút ít. Sau đó, Sư đến yết kiến Hoằng Trí. Trí nhắc: “chính trong sáng có tối, chẳng dùng tối gặp nhau, chính trong tối có sáng, chẳng dùng sáng thấy nhau” để hỏi Sư. Sư chẳng khế hội. Đầu hôm, Sư định trở lại trước tượng Thánh tăng thắp hương, mà Hoằng Trí cũng vừa đến. Sư trông thấy liền chóng rõ câu nói trước. Hôm khác, Sư vào thất. Hoằng Trí nhắc: Than ôi! Ngày trước mặt như ngọc, lại than! Xoay về râu tợ sương, để hỏi Sư. Sư đáp: - Kia vào ly, kia ra vi.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ TỪ TÔNG

Ở Tuyết Đậu Minh Châu

Sư họ Trần, quê ở Huy Châu, thuở nhỏ chuyên học kinh, khi thọ giới cụ túc xong, nương theo Thiền sư Huệ Diệu Trạm thưa hỏi được thích nhiên khế hợp. Thiền sư Huệ lấy phất tử phó chúc cho Sư.

*

Sau Sư đến Thiền sư Hoằng Trí nhờ ấn khả, ở đây đạo đức của Sư càng được thâm áo. Sau này Sư trụ trì các nơi như: Phổ Chiếu, Thiện Quyền, Thúy Nham, Tuyết Đậu.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ CHÍ TUYỀN TỔ ĐĂNG

Ở Vân Phong

Sư họ Trần, quê ở Việt Đông.

Sư thượng đường: Thôi đi hết đi, một niệm muôn năm đi, cây khô tro tàn đi, lò hương miếu cổ đi, một mảnh lụa trắng đi. Đại chúng! Cổ nhân chỗ thấy như mặt trời soi trong không, chẳng mắc hai bên há rơi ấm giới. Than ôi! Cháu con sau này phần nhiều khởi hiểu một bên sắc. Sơn tăng tức chẳng thế, chẳng thôi đi chẳng hết đi, nghiệp thức mênh mông đi, bảy điên tám đảo đi, chữ thập (+) đầu đường ồn vang vang, trong thanh sắc nằm ngồi đi, ba nhà trong thôn bồi đường bít lộ, trong rừng gai góc dạo chơi đi, núi đao cây kiếm chĩa bụng đâm tim, vạc dầu lò lửa lủng da nát xương đi, cử xướng như thế dường như trẻ con ba tuổi đánh cầu thêu.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ DIỆU TRẠM TƯ HUỆ

Tuyết Phong

Sư con nhà họ Du, quê ở Tiền Đường.

*

Có vị Tăng hỏi: - Khi điện cổ không đèn thì thế nào?

Sư đáp: - Vách đông đánh vách tây.

Tăng thưa: - Thế ấy ắt chụp được cột cái.

Sư bảo: - Chưa dám nhận nhau.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ BẢO ẤN SỞ MINH

 Tịnh Từ phủ Lâm An

           Sư họ Trương, quê ở Bách Việt.

*

Sư thượng đường: Tâm ấn Tổ sư chẳng dài chẳng ngắn chẳng vuông chẳng tròn chẳng trong chẳng ngoài cũng chẳng khoảng giữa. Xin hỏi đại chúng quyết định là hình mạo gì? Sư cầm gậy nói: Cổ triện chẳng thành văn, truy bạch khó đồng thể, từ trước tự phân minh, đâu cần lại chuyên tạo. Sư gõ giường thiền xuống tòa.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ NHẬT ÍCH

Thượng Phương

Ngày khai đường Thủ tọa bạch chùy xong. Sư nói: - Trước bạch chùy quán một lại chẳng thành, sau bạch chùy quán hai lại chẳng phải, đến trong đây dù là mắt sắt tròng đồng, cũng phải vỡ trăm mảnh. Có Thiền tăng nào chẳng sợ nguy vong, thử ra xem?

             Khi ấy có hai vị Tăng đồng ra. Sư nói: - Một mũi tên rơi hai chim Điêu.

             Tăng thưa: - Thoại con chưa hỏi đâu được rối loạn.

Xem tiếp...

THIỀN SƯ TRÍ BỔN

Núi Vân Cái Đàm Châu

           Sư họ Quách, quê ở Thụy Châu.

             Ngày khai đường, có vị Tăng hỏi: - Chư Phật ra đời trời mưa bốn thứ hoa, Hòa thượng ra đời có điềm lành gì?

             Sư đáp: - Ngàn nghe chẳng bằng một thấy.

             Tăng hỏi: - Sau khi thấy thế nào?

Xem tiếp...

THIỀN SƯ PHÁP DIỄN

Ngũ Tổ

Sư họ Đặng, quê ở Miên Châu, đến ba mươi lăm tuổi mới thế phát xuất gia. Sư thọ giới cụ túc xong đến Thành đô học tập luận Bách Pháp, Duy Thức. Sư nhân nghe Bồ-tát khi vào kiến đạo, trí cùng lý hợp, cảnh cùng thần hội, chẳng phân năng chứng sở chứng. Ngoại đạo ở Ấn Độ thường nạn Tỳ-kheo rằng: Đã chẳng phân năng chứng sở chứng, lại lấy cái gì làm chứng? Tỳ-kheo không đáp được. Ngoại đạo chê bai không đánh chuông trống, chúng lại mặc ca-sa. Pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ cứu được nghĩa này rằng: ?Như người uống nước lạnh nóng tự biết.? Từ đây mới giải được cái nạn này. Sư nói: Lạnh nóng ắt là biết vậy, thế nào là việc tự biết? Sư liền chất vấn thầy dạy: Chẳng biết lý tự biết như thế nào? Giảng sư cũng không giải được, chỉ khuyên rằng: Ngươi muốn rõ lẽ này nên đến phương Nam hỏi những vị truyền Phật Tâm tông. Sư liền mang gói sang phương Nam.

Xem tiếp...