KINH PHÁP HOA - PHẨM HÓA THÀNH DỤ ( TT 2)

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ, mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: "Thưa Thế Tôn các vị đại đức Thanh văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học.

Thế Tôn! Chúng con có chỗ mong được tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm đức Phật tự chứng biết cho.

Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.

GIẢNG:


Bấy giờ mười sáu vị vương tử là đồng tử xuất gia làm sa di, mới bạch Phật, thỉnh Phật nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác. Mười sáu vị vương tử còn đồng tử nhưng đã xuất gia rồi. Mười sáu vị vương tử đó là chỉ cho những phần tâm thức. Còn đồng tử xuất gia là vẫn còn tánh thiên chân, tánh chưa có mất, tuy mê thành thức rồi nhưng tánh thiên chân đó chẳng mất, bởi vậy kinh Lăng Già có một đoạn nói rằng: "tướng chẳng hoại có tám", tám đây là chỉ cho tám thức, trong tám thức đó vẫn có cái bất hoại.

Thường mình nói thức là sanh diệt, nhưng đây nói rằng: Ngay tám thức sanh diệt đó vẫn ngầm có tánh thường trụ bất sanh bất diệt trong đó. Vậy để cho thấy rõ cái sanh diệt là cái giả tướng. Cho nên đây các Vương tử xuất gia, tức là sao? Đó là báo hiệu cho biết các thức đã chuyển ra khỏi trói buộc mê lầm. Làm Bồ Tát Sa Di. Sa Di chỉ cho mấy vị mới bước vào hàng xuất gia thọ mười giới. Trung Hoa gọi là Tức Từ, Tức là dừng, dừng ác tu thiện. Sa Di cũng có ba hạng.

1. Hình đồng Sa Di: cạo tóc mà chưa thọ giới, hình giống Sa Di mà chưa phải.

2. Pháp đồng Sa Di: pháp đồng đây có ba hạng:

            a. Hạng khu ô: tức là Sa Di đuổi quạ, là những vị còn trẻ chừng tám chín tuổi đến mười ba tuổi, tuy thọ mười giới nhưng vì còn nhỏ nên chỉ lo đuổi chim, quạ cho chúng tăng.
            b. Ứng pháp Sa Di: là lớn rồi có thể thờ thầy tu hạnh xuất gia, ứng pháp là đáng nhận pháp để tu hành.
            c. Danh tự Sa Di: trên hai mươi tuổi nhưng chưa thọ đại giới, cũng còn mang tên Sa Di nên gọi là danh tự.

3. Bồ Tát Sa Di: khi thọ Bồ Tát giới.

Ở đây các Ngài xuất gia rồi thì thỉnh Phật nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, các Ngài nói "Thế Tôn, chúng con có chỗ mong được tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, Đức Phật tự chứng biết cho", nghĩa là sao? Những vị khác không có rành, không biết để thỉnh Phật nói về tri kiến của Như Lai, mà mười sáu vị này thỉnh Phật, bởi mười sáu vị này là chỉ cho thức tâm, thức tâm này nó có kho Như Lai trong đó rồi, do đó mà thầm biết được Như Lai, nên mới thỉnh Phật nói pháp vô thượng.

Thỉnh nói pháp chân thật này nghĩa là sao? Để cho mình quên mất tướng sai biệt là tám, là mười sáu kia đi, mình thường thường nghe có tám thức thì mắc kẹt có tám cái, cho nên ở đây thỉnh nói pháp tri kiến Phật đó để cho mình sống trở về thầm hợp với cái nhất như, quên cái tướng sai biệt đó, thấy rõ trong tám thức đó đồng một thể giác thôi, chớ còn mình cứ nghĩ có tám cái riêng biệt, là mắc kẹt trên chữ nghĩa. Rồi lúc đó tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng tự cầu xuất gia là ý gì? Tức những cái tâm, những niệm phụ thuộc theo đó cũng chuyển luôn. Khi cái thức gốc nó chuyển, thì các ngọn ngành như phiền não cũng theo đó, chuyển thành những diệu dụng hết. Cho nên các vị này xuất gia thì các thứ đó cũng chuyển theo đều cầu xuất gia hết.

Như vậy để thấy thành Phật rồi không có nghĩa là mình bỏ hết trơn, đừng sợ thành Phật rồi thì không còn gì hết. Nghĩa là cũng cái biết này khi mình mê gọi là thức, gọi là chúng sanh, khi giác rồi thì nó chuyển thành trí, Phật đổi tên vậy thôi, chớ không phải bỏ mất đi đâu. Bởi vậy nói chuyển, chớ thật sự không có gì để chuyển hết, chỉ chuyển cái tên thôi.

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh đại thừa tên là: "Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm". Đức Phật nói Kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói Kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.

GIẢNG:

Đây Phật nhận lời thỉnh rồi nói kinh, nhưng cũng chưa nói liền mà phải đợi qua hai muôn kiếp sau, mới ở trong bốn chúng nói kinh Pháp Hoa, còn mình bây giờ sao? Nghe dễ dàng quá phải không? Nhận thỉnh là gợi ý cho biết thật có việc này rồi, thật có tri kiến Như Lai, nhưng còn phải đợi tâm người tương ưng chín mùi, thì mới có thể chỉ thẳng được, họ mới dễ tin nhận, chớ tâm chưa chín mùi mà nói là chưa có thể nhận, cho nên phải đợi hai mươi kiếp sau mới nói. Phật nói kinh đó xong rồi, các vị Sa Di đó đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc, trong chúng đó cũng có người tin hiểu, ngoài ra đều sanh nghi, Phật nói kinh đó cả tám nghìn kiếp chưa thôi bỏ, mấy chỗ này phải chú ý! Phật nói xong thì mười sáu vị Sa Di thọ trì, học thuộc lòng tin nhận, mười sáu vị Sa Di đó chỉ cho thức tâm chuyển rồi, nên trực tiếp lãnh nhận được tri kiến đó và sống trong trí thể Như Lai đó, gọi là tin nhận và học thuộc lòng, thuộc lòng là sống trong đó chớ không phải thuộc lòng là thuộc làu từng chữ từng câu. Tức là các vị này đã tin nhận sống thường xuyên trong tri kiến Phật đó. Còn các vị khác thì sao? Có vị tin hiểu được mà chưa nhận sống được, còn có số thì nghi lầm, tức là bị các trần lao này nhiều quá, trần duyên còn nhiều nên chưa có thể tin nhận được trong đó, chưa thể ngay đó mà nhận sống được. Chính vì vậy mới còn sót lại tới ngày nay, quý vị đang ngồi đây là số còn sót lạị. Vì lúc đó chưa có tin nhận. Bởi vậy Phật nói pháp suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ, nghĩa là nói luôn không có ngừng nghỉ, quý vị thấy nói pháp gì mà tới tám nghìn kiếp, mình đây nói pháp chừng một ngày không nghỉ nói nổi không? Rồi chúng ngồi nghe không biết nghe sao nữa? Là chỉ cái gì? Đó là muốn chỉ nói pháp này là kinh Pháp Hoa hay Tri Kiến Phật đó, nó luôn luôn sáng ngời không lúc nào gián đoạn, mình phải thấy đến chỗ luôn luôn như vậy không gián đoạn, thì mới nghe được Pháp Hoa này, mới rõ được Tri Kiến Phật này, chớ còn thấy có lúc nói có lúc không, là không phải tri kiến Phật. Tri kiến Phật là phải thấy nó sẵn có luôn luôn không lúc nào gián đoạn, không lúc nào thiếu vắng. Rồi Ngài nói xong thì sao nữa? Nói xong vào trong tịnh thất trụ thiền định, im luôn trải qua tới tám muôn bốn nghìn kiếp, đó là muốn nhắc mình cái gì? Nói xong vô ngồi im, muốn nhắc mình nghe Pháp Hoa thì phải nghe, phải thấy vượt qua ngôn ngữ, thấy được lý chân thật là phải đạt ý quên lời, thấy như vậy đó mới thấy được ý sâu của Pháp Hoa.

Bây giờ quý vị kiểm lại xem Phật Đại Thông đó có phải Ngài đang trụ trong thiền định không mà mình lại không thấy? Bởi Ngài trụ trong thiền định nên không thấy nổi, nhưng nếu ai thấy chỗ Ngài đang trụ trong thiền định này, thì gặp Phật Đại Thông xuất định liền. Ngài vào trong tịnh thất thiền định thì quý vị biết tịnh thất đó ở đâu không? Tịnh thất đang ngồi đây! Ngài đang trụ trong tịnh thất này, thấy Ngài đang trụ trong đó thì Ngài xuất định ngay thôi. Và thấy được như vậy là mình thấu qua tám muôn bốn nghìn kiếp.

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.

GIẢNG:

Phật trụ trong thiền định, các vị Bồ Tát thay Phật Đại Thông nói Pháp Hoa, tại sao? Tại vì các vị này đã xuất gia, tức các thức đã chuyển thành trí rồi, chính cái trí đó mà cái thể của nó vốn là Như Lai, cho nên nó sáng mãi không cùng, do đó mà nó diễn nói không dứt. Trong đó độ vô lượng chúng là sao? Tức là nó chuyển mọi phiền não vi tế, trong đó, tất cả đều chuyển theo hết, khiến cho ánh sáng của Pháp Hoa đó sáng mãi, sáng mãi không cùng, ý nghĩa của diệu pháp là đó. Mỗi vị độ vô số muôn ức hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy đều được vui mừng đều khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là chuyển mọi phiền não tập khí đó trở về chánh giác hết.

CHÁNH VĂN:

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong đại chúng: "Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các Đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.

Vì sao? Nếu hàng Thanh Văn, Duyên Giác, cùng các Bồ Tát có thể tin kinh pháp mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo Vô thượng chánh đẳng, chánh giác trí huệ của Như Lai.

GIẢNG:

Tức là khi Phật Đại Thông ở trong thiền định, qua tám muôn bốn nghìn kiếp rồi, Ngài từ trong thiền định dậy đến pháp tòa ngồi an lành, khen ngợi các vị Bồ Tát Sa Di này, rồi khuyên các đại chúng phải nghe theo các vị đó, thọ trì không mất, gần gũi các vị đó thì sẽ đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Qua tám muôn bốn nghìn kiếp từ định dậy, là muốn nhắc mình phải thấu qua tám muôn bốn nghìn phiền não trần lao đó, thì sẽ gặp được Phật Đại Thông Trí Thắng xuất định. Vậy quý vị thấy rõ Phật Đại Thông Trí Thắng đang nhập định với mình phải không? Cho nên chưa thấy Ngài xuất định vậy thì ngay đây nếu mình mỗi niệm, mỗi niệm đều giác thì mỗi một niệm giác là qua được một kiếp, niệm niệm đều giác thì Phật Đại Thông xuất định. Rất là dễ dàng đơn giản. Ở đây xuất định rồi, Ngài mới khen các vị Sa Di này, đã từng cúng dường vô lượng đức Phật, ở nơi các Đức Phật đó tu hành thanh tịnh thọ trì trí của các Đức Phật, để chỉ dạy cho các chúng sanh, cho nên các ông phải luôn luôn gần gũi cúng dường các vị ấy. Bởi mười sáu vị Sa di này là thức tâm của mình, thức tâm này nó vẫn luôn luôn không rời cái thể giác cho nên gọi là thường gần gũi vô lượng đức Phật, cũng như mình vẫn hằng sống trong thể giác này mà không hay. Như vậy chỉ ngay nơi các thức tâm này mà mình nhớ lại và sống trở về, thì liền tự hợp với Như Lai, được Như Lai tán thán thôi, mình bây giờ chưa được Như Lai tán thán là chưa sống trở về. Quả thật là Vô thượng chánh đẳng chánh giác không phải là pháp ở đâu xa, mà chính ở ngay nơi tâm mình đây. Nghĩa là cái biết hiện có đây, mà đừng có mê thì ngay đó là phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chính cái biết này mà mê nên bị cảnh che và nó dẫn mình chạy trong sanh tử luân hồi. Rồi cũng cái biết này mình không mê, luôn luôn rành rẽ rõ ràng trước mọi cảnh thì ngay đó là thể giác Như Lai hiện bày chớ có gì đâu, nếu mình hằng sống như vậy không gián đoạn, tức là Vô thượng chánh đẳng chánh giác chớ gì! Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cái chánh giác không gián đoạn, mà vô thượng là trên hết không có gì so sánh được với nó hết.

CHÁNH VĂN:

Phật bảo các Tỳ kheo! Mười sáu vị Bồ Tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Sáu trăm muôn ức na do tha hằng ha sa chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ Tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.

Các Tỳ kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đương nói pháp trong cõi nước ở mười phương, có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ Tát, Thanh Văn để làm quyến thuộc.

Hai vị làm Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên A Súc ở nước Hoan Hỷ. Vị thứ hai tên là Tu Di Đảnh.

Hai vị làm Phật ở phương Đông Nam: Vị thứ nhất tên là Sư Tử Âm. Vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng.

Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhất tên là Hư Không Trụ. Vị thứ hai tên là Thường Diệt.

Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: Vị thứ nhất tên là Đế Tướng,vị thứ hai tên Phạm Tướng.

Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhất tên là A Di Đà, vị thứ hai tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não.

Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhất tên là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu Di Tướng.

Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhất tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương.

Một vị làm Phật ở phương Đông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy.

Vị thứ mười sáu chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nước Ta bà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Các Tỳ kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di, mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn hằng hà sa chúng sanh vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh Văn, ta thường giáo hóa pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo.

Vì sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng ha sa chúng sanh được hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các tỳ kheo và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh Văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.

Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.

Các Tỳ kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ Tát và chúng Thanh Văn mà vì nói kinh này. Trong đời không có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật thừa đặng diệt độ thôi.

Các Tỳ kheo nên rõ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ rất ham nơi năm món dục, vì hạng này mà nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.

GIẢNG:


Đây Phật nói với các Tỳ kheo rằng mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp này, rồi có sáu trăm ức hằng hà sa chúng sanh, được các vị Bồ Tát Sa Di đó hóa độ, thầy trò đời đời gặp nhau được ở chung, nhờ nhân duyên đó mà được gặp các Phật Thế Tôn. Cuối cùng mười sáu vị đều được thành Phật hết, mà bây giờ đang thuyết pháp ở mười phương, các vị Bồ Tát Sa Di này chỉ cho thức tâm nhưng đã chuyển thành trí, nên cũng từ nơi đức Phật Đại Thông Trí Thắng là cha, rồi xuất gia với Phật, mà thường nói Pháp Hoa, đó chỉ nơi tâm thức này luôn luôn là có ánh sáng Tri kiến Phật, nên các vị này thường nói kinh Pháp Hoa. Do thường nói kinh Pháp Hoa nên có sáu trăm muôn ức na do tha chúng sanh đều được các vị đó hóa độ, thường được sanh chung với nhau, được nghe pháp, nhờ nhân duyên đó mà thường gặp các đức Phật Thế Tôn cho đến ngày nay vẫn không ngớt, nghĩa là ngày ngày thường gặp Phật. Chúng sanh đâu mà nhiều như vậy, đến sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa? Đó là chỉ cho mọi tâm niệm vi tế của mình, mỗi tâm niệm vi tế là một chúng sanh, mà những tâm niệm của mình tính chừng bao nhiêu? Vô số kể không sao tính được, những tâm niệm đó giờ đây đều theo ánh sáng của Tri Kiến Phật, mà được chuyển về nguồn giác hết, cho nên thường gặp Phật, luôn luôn gần gũi với các vị Bồ Tát đó. Thường gặp Phật tức là luôn luôn ở trong ánh sáng của chánh giác. Như vậy nếu các thức căn bản nó đã chuyển rồi, thì những tâm niệm vi tế nó đều chuyển theo, đều trở về sống trong ánh sáng của chánh giác hết. Bởi vậy tuy chúng ta niệm niệm vô số không tính kể, nhưng mỗi niệm đó mình đều giác hết không mê thì lo gì mà không gặp Phật.

Có nhiều vị tu, nói ngồi thấy vọng hoài, không biết chừng nào hết có khi rồi chán! Ở đây thấy rõ tuy niệm nhiều, nhưng mỗi niệm đều giác được nó mà không mê, thì tức là nó ở trong ánh sáng của chánh giác rồi. Một niệm mê là một niệm giác, một trăm niệm mê thì có một trăm niệm giác, một ngàn niệm mê thì có một ngàn niệm giác. Giả sử một triệu niệm mê mình có triệu niệm giác nữa, cho đến không còn một niệm nào mà mình không giác thì sao? là hằng giác rồi, còn đòi gì nữa. Hiểu vậy thì mới thấy được ý tu hành, chớ không thì nói mình tu sao thấy niệm hoài, không tu thì không thấy gì hết. Vì bởi không tu nên không thấy gì, còn tu thì phải thấy, chính thấy đó là giác, như vậy thấy nhiều chừng nào thì giác nhiều chừng nấy, chớ không giác thì làm sao thấy nhiều được. Đến một độ không có niệm nào ngoài niệm giác, thì còn lại là gì? Ngay đó là bảo sở rồi! Còn mình thường tu chút chút là muốn nghỉ ngơi, như đoạn hóa thành sau, đi chút thấy mệt phải vào hóa thành nghỉ, còn đây là đến Bảo Sở phải đi cho đến tột. Đó là nói rõ ý nghĩa để tu hành.

Rồi các vị Sa Di hiện thành Phật đương nói pháp trong cõi nước mười phương, như ở phương Đông có Phật A Súc ở nước Hoan Hỷ, vị thứ hai là Tu Di Đảnh v.v… và vị thứ mười sáu đó là Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Ta bà này. Mười sáu vị thành Phật rồi chia ra khắp nơi ở mười phương tức là sao? Mình quay chỗ nào cũng đụng Phật hết, nhưng đây thấy rõ cái thể giác Phật Đại Thông Trí Thắng có một thôi, mười sáu vị Sa Di thành Phật thành ra có mười sáu vị. Như vậy, mười sáu vị đó thành Phật tuy mỗi vị có sai khác, nhưng đồng một thể giác là Đại Thông Trí Thắng, đồng thể giác chân thật, đồng một pháp thân thôi. Bởi vậy khi nói thành Phật là thành cái gì? Pháp thân thì sẵn rồi đâu còn thành nữa, mà nói thành là chỉ cho Phật ứng thân, ứng hiện cho nên có sai biệt, có mười sáu, nói thành đó cũng là phương tiện mà nói, cũng thành một thể giác sẵn đó thôi, chớ không phải có gì khác nữa. Nghĩa là từ một gốc của Phật Đại Thông Trí Thắng đó, mà ứng hiện, khi thành thì có mười sáu sai biệt, còn thể chơn thật đó thì vốn sẵn rồi, vốn thành Phật từ thuở nào rồi. Cho nên sau này khi học đến phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật nói ta vốn thành Phật đã lâu rồi, và các vị thành Phật hiện ra mười phương nói pháp khắp nơi hết, tức là đâu đâu cũng đều có ánh sáng Phật đó, tức ánh sáng chánh giác đó, nếu khi tâm mình thanh tịnh, thì ngay đây liền gặp Phật.

Thêm ý nữa Phật Đại Thông Trí Thắng nói Pháp Hoa, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó thọ trì rồi nói cho các vị khác nghe, rồi cũng thành Phật. Mười sáu vị Sa Di đó được thành Phật tức là thể nhập pháp thân chân thật Đại Thông Trí Thắng, thì phải từ Tri Kiến Phật mà vào, chớ không có con đường nào khác. Hiện giờ mình tu có pháp này pháp kia, nhưng rốt ráo để thể nhập thể giác, tức pháp thân chân thật đó cũng phải từ Tri Kiến Phật mà vào, mà tri kiến Phật đó ở đâu? Ở ngay nơi sáu căn của mình, Tri Kiến là thấy biết, thấy biết mà giác ngộ đó là Tri Kiến Phật, thấy biết mà theo mê đó là tri kiến chúng sanh. Vậy thấy biết này là cửa để mình vào.

Rồi đức Phật Thích Ca nhắc lại, lúc chúng ta làm Sa Di có giáo hóa vô lượng hằng hà sa chúng sanh, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác thường theo ta nghe pháp, những chúng sanh đó cho đến nay có người trụ bực Thanh Văn, Ngài cũng thường giáo hóa cho pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên những người này lần lần vào Phật đạo. Giờ đây những người được hóa độ trong thuở đó, thì chính là bọn ông đang ngồi đây. Sau khi Ngài diệt độ các đệ tử Thanh Văn trong thời vị lai, rồi cũng có những vị không nghe kinh này, không hay không biết hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ. Nhưng Ngài cũng ở nơi nước khác làm Phật có tên khác, rồi người đó ở nơi các cõi kia cầu trí huệ Phật, thì cũng nghe kinh này, rồi cũng do Phật thừa mà diệt độ thôi chớ không gì khác hết.

Đó là Ngài nhắc lại, nói rõ mọi người đã có duyên với Phật lâu rồi không phải mới đây để cho có đủ niềm tin, nghĩa là ai ai cũng có điều kiện để mà giác ngộ hết, bởi từng đã gặp Phật rồi. Nếu không nhắc kỹ như vậy, có người nghĩ rằng chuyện thành Phật là chuyện khác thôi, chuyện của các vị đã tu lâu, chớ mình mong gì, cho nên Phật nhắc kỹ: Các ông từng có nhân duyên với ta rồi, ta từng giáo hóa nhưng các ông quên thôi, tức là ai ai cũng có ông Phật sẵn, sống trong thể giác sẵn đó mà quên. Ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca không gặp được thì Ngài nói, có khi ở nước khác Ngài làm Phật có tên khác nhưng cũng gặp Ngài, Ngài dạy cho Phật thừa mà vào, cũng dẫn người để vào trí huệ Phật thôi. Như vậy mình ở đây hay đi đâu rốt cuộc chạy đâu cũng không khỏi hết, cũng không ra ngoài ánh sáng chánh giác đó. Vậy quý vị thấy chỗ này mình tu bảo đảm không sợ mất. Chạy đâu cũng đụng hết.Thiền Sư Cảnh Sầm ở Trường Sa có lần Ngài dạy:

Tột mười phương thế giới là con mắt của Sa môn, tột mười phương thế giới là thân của Sa môn, tột mười phương thế giới đó là ánh sáng của chính mình.. Tột mười phương thế giới ở trong ánh sáng chính mình, tột mười phương thế giới không người nào là chẳng phải chính mình. Ta thường nói với các ông Chư Phật trong muôn đời cùng với chúng sanh khắp pháp giới đều là ánh sáng Ma Ha Bát Nhã.

Nghĩa là Ngài xác định Chư Phật trong đời này, cùng với chúng sanh ở khắp pháp giới đều là ánh sáng Ma Ha Bát Nhã hết.

Như vậy khắp cả mười phương đều là ở trong ánh sáng của chính mình, mình quay qua đâu cũng đụng ánh sáng đó hết, nhưng tại sao không sáng? Vậy ngay khi mình ngồi đây có ánh sáng đó không? Phật Thích Ca thì nhập Niết Bàn rồi, còn Phật này đang ở nước khác đang dẫn vào trí huệ Phật, mình còn chưa sáng, thì còn đợi gì nữa. Cho nên thấy được điều này thì ngay đây mình thấy Phật ra đời, khỏi cần đợi đâu xa. Nghe Pháp Hoa là phải như vậy đó. Tụng Pháp Hoa là cũng như vậy, chớ không phải tụng từng trang, từng trang, tụng hoài để đếm bộ; đây mới là bộ kinh Pháp Hoa sống.

Khi đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến thì sao? Thì trong chúng đã thanh tịnh rồi, lòng tin hiểu đã bền chắc, tức các căn đã thuần rồi. Cho nên Ngài liền nhóm các vị Bồ Tát và Thanh Văn mà nói kinh Pháp Hoa này, ở trong đời không có hai thừa được diệt độ, mà chỉ một Phật thừa thôi, nhấn mạnh trở lại, phải thấy được thể giác chân thật của chính mình, đó là gốc.

Ngài nói Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết trí nó ưa pháp nhỏ, ham nơi các món dục, nên mới vì họ mà nói Niết Bàn, để cho họ dứt khổ họ tin nhận, nghĩa là chúng sanh còn mê, tâm yếu đuối, còn đang khổ nhiều quá, nếu bảo họ tu phải giác ngộ, phải thành Phật, thì xa quá họ không tin nổi, nên trước hết phải nói dứt khổ, khi họ nghe và tu để dứt khổ rồi, lòng tin tăng trưởng dần mà tiến tới giải thoát.

Ngài kết lại cái bản hoài của Phật ra đời là chỉ vì một Phật thừa, chỉ cho người trí huệ thành Phật thôi, chớ không có gì khác hết, nếu có nói phương tiện này, phương tiện khác là cũng để dẫn về chỗ này thôi. Như vậy nghe nói Niết Bàn, tịch diệt, vô sanh, thì mình phải sao? Mình phải thầm nhận cái gì rõ biết tịch diệt vô sanh. Nếu tịch diệt vô sanh mà không biết gì, thì ai nói lại chỉ cho mình nghe đây. Khi nghe nói tịch diệt, nói Niết Bàn thì phải nhận rõ được ý của Phật chỉ ra cái gì, chớ không phải dừng ngay ở đó. Còn các vị nhị thừa, nghe nói Niết Bàn là Niết Bàn thôi, tịch diệt là ngay ở đó hết rồi, đây muốn đưa mình lên phải nhận rõ, khi nói tịch diệt vô sanh, thì cái gì rõ biết được tịch diệt vô sanh, cho nên mới chỉ dạy lại cho mình, nhận được chỗ đó, mới thấy được ý sâu của Phật, chớ không phải nói Niết Bàn ngay đó dừng.

CHÁNH VĂN:

Thí như đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó, chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: Chúng con mệt nhọc lại thêm lo sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về.

Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng: Các ngươi chớ sợ đừng lui về, nay thành lớn này có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành này sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng đặng.

Bấy giờ chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhơn thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc ấy đạo sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: "Các người nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".

Các Tỳ kheo! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại Đạo Sư, biết các đường sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật chẳng muốn gần gũi, mà nghĩ thế này: "Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết Bàn.

Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói: "Chỗ tu của các ông chưa xong, bực của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo đó rằng: "Chỗ châu báu ở gần, thành này không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi".

GIẢNG:

Ở trước nói về Phật Đại Thông Trí Thắng, bây giờ nói thẳng về thí dụ Hóa Thành, tức là ở nơi các đường hiểm nạn dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người, đường hiểm dài năm trăm do tuần đó chỉ cái gì? Là chỉ đường hiểm sanh tử, trong đó ba độc tức tham, sân, si đầy dẫy, rồi những phiền não luôn luôn chi phối, nên đó là chốn ghê sợ, nghĩa là mình đụng đến đâu cũng là khổ hết. Bây giờ mình đi trong đây là sao? Đi trong đường hiểm là luôn luôn hồi hộp, lo sợ, không biết nó mất lúc nào, sống luôn luôn trong phập phồng. Chúng sanh bị lưu chuyển lâu dài ở trong đó, cho nên mê mờ quên mất tánh chân của mình, không có chỗ gì nương tựa hết, nên gọi là hoang vắng không người. Đó là thí dụ cho thảm trạng của chúng sanh, chính mình đang sống mà không hay không biết, vì vậy đức Phật mới từ bi, Ngài ra đời làm bậc đạo sư để dẫn dắt mình ra khỏi.

Đây nói chúng đông muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó. Chúng đông đó là chỉ những bậc nhị thừa muốn vượt qua sinh tử, được Phật là vị đạo sư dẫn dắt qua, chúng nhân đó được dắt đi giữa đường mệt mỏi bạch đạo sư rằng: Đường trước còn xa không biết bao giờ mà tới, nên muốn lui về cho khỏe. Vị Đạo sư đó thấy thương, nên tự nghĩ rằng: "Bọn này đáng thương làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về”, cho nên dùng phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành lớn, bảo vào trong đó tạm nghỉ. Đó là muốn nói lên cái gì? Ở giữa đường, hóa cái thành để cho tạm nghỉ, mà hóa thành ở cách đó khoảng ba trăm do tuần, để chỉ cho ngoài cái sanh tử, Phật nói có Niết Bàn, là chỗ dứt sạch sanh tử, dứt bặt khổ đau. Cho nên các ông phải vượt qua cái sanh tử này, an trụ vào trong Niết Bàn đó thì hết khổ, là an ổn, hết phiền não.

Nhưng chỉ dừng chỗ hết phiền não thôi thì chưa đủ, phải tiến lên nữa, có đầy đủ trí tuệ Phật, đầy đủ phương tiện để dẫn dắt cho mọi người nữa. Do đó vị Đạo sư biết mọi người nghỉ ngơi hết mệt rồi, mới diệt hóa thành đó bảo rằng: "Thôi các người hãy đi tới, chỗ châu báu đó ở gần đây, cái thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra thôi". Nghĩa là tự tánh chúng sanh vốn là Niết Bàn tự bao giờ, thì còn Niết Bàn gì khác nữa. Mình nghe nói chứng Niết Bàn, mà giờ đây tự tánh mình vốn là Niết Bàn từ lâu rồi, thì còn gì khác để mà chứng nữa. Cho nên đây Ngài nói rằng: cái đó là phương tiện hoá ra. Chỗ châu báu đó ở gần đây. Chỗ này phải chú ý, chỗ bảo sở đó gần đây, mà không nói chỗ nào hết, là chỉ cho cái đó ngay nơi mình thôi, người khéo nhận thì thấy liền. Bởi vì nếu có chỗ thì thuộc về cái bên ngoài rồi, nên nói gần đây thôi. Người khéo thì ngay đây thấy được ý sâu Phật muốn chỉ. Vậy cái gì có lập ra thì đó là chưa phải thật, cái thật thì ngay chính mình, phải hiểu được ý đó.

Hợp pháp lại, Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại Đạo Sư biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ, nên vượt qua. Bây giờ chúng sanh chỉ nghe dạy một Phật thừa, thì họ không muốn tiến tới, cho nên buộc lòng Phật phải nói phương tiện, nói là có hai thứ Niết Bàn.

Hai thứ Niết Bàn tức là Niết Bàn của Thanh Văn, và Niết Bàn của Duyên giác, Niết Bàn chân thật một còn không có, thì nói gì là hai, cho nên đó là phương tiện. Đối với các vị Bồ Tát đâu đâu cũng là Niết Bàn nên gọi là vô trụ xứ Niết Bàn. Vậy bất cứ chỗ nào ngay chỗ mình ngồi đây cũng là Niết Bàn nữa, thì có gì phải nhập. Thấy được chỗ đó mới thấy được Niết Bàn chân thật, tức là Niết Bàn ngay tự tánh của mình. Đây Ngài nói rằng có nói ra hai thứ Niết Bàn đó cũng là phương tiện, nếu chúng sanh tạm được như vậy rồi, thì Ngài mới cởi bỏ phương tiện đó, đánh thức mình nhận rõ chỗ chân thật.
Cho nên còn có lập bày gì đó là còn thuộc hóa thành, nếu dừng trong đó là còn mắc kẹt, phải đi hoài, vô trụ mới là chân thật.

CHÁNH VĂN:

Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                    Đại Thông Trí Thắng Phật
                    Mười kiếp ngồi đạo tràng
                    Phật pháp chẳng hiện tiền
                    Chẳng đặng thành Phật đạo
                    Các trời, thần, Long Vương
                    Chúng A tu la thảy
                    Thường rưới các hoa trời
                    Để cúng dường Phật đó
                    Chư Thiên đánh trống trời
                    Và trổi các kỹ nhạc
                    Gió thơm thổi hoa héo
                    Lại mưa bông tốt mới
                    Quá mười tiểu kiếp rồi
                    Mới đặng thành Phật đạo.
GIẢNG:


Đây là kệ trùng tuyên Phật Đại Thông Trí Thắng, Ngài ngồi Đạo tràng mười kiếp mà Phật pháp chẳng hiện tiền, rồi Chư Thiên, Long Vương… đến rải hoa cúng dường qua mười tiểu kiếp thì Phật pháp mới hiện tiền, mới thành Phật đạo, tức là thể giác được lộ bày.

                    Các trời cùng người đời
                    Lòng đều sanh hớn hở
                    Mười sáu người con Phật
                    Đều cùng quyến thuộc mình
                    Nghìn muôn ức vây quanh
                    Chung đi đến chỗ Phật
                    Đầu mặt lạy chơn Phật
                    Thỉnh Phật chuyển pháp luân
                    Đấng Thánh Sư mưa pháp
                    Lợi con và tất cả
                    Thế Tôn rất khó gặp
                    Lâu xa một lần hiện
                    Vì giác ngộ quần sanh
                    Mà chấn động tất cả.
GIẢNG:


Đây là nói mười sáu vị vương tử nghe Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật, thì cùng với quyến thuộc cùng đi đến gặp Phật, khi gặp Phật mới thỉnh Phật chuyển pháp luân, tức là các thức đều chuyển theo, chuyển pháp luân là:

                    Lợi con và tất cả
                    Thế Tôn rất khó gặp
                    Lâu xa một lần hiện
                    Vì giác ngộ quần sanh
                    Mà chấn động tất cả

Nghĩa là ánh sáng giác ngộ đó hiện ra rồi, nó sẽ làm chấn động tất cả những vô minh, những phiền não, khiến cho người đều được thức tỉnh.

CHÁNH VĂN:

                    Các thế giới phương đông
                    Năm trăm muôn ức cõi
                    Phạm cung điện sáng chói
                    Từ xưa chưa từng có
                    Phạm Vương thấy tướng này
                    Liền đến chỗ Phật ở
                    Rải hoa để cúng dường
                    Và dâng cung điện lên
                    Thỉnh Phật chuyển pháp luân
                    Nói kệ ngợi khen Phật
                    Phật biết chưa đến giờ
                    Nhận thỉnh yên lặng ngồi
                    Ba phương cùng bốn phía
                    Trên, dưới cũng như thế
                    Rưới hoa dâng cung điện
                    Thỉnh Phật chuyển pháp luân
                    Thế Tôn rất khó gặp
                    Nguyện vì bổn từ bi
                    Rộng mở cửa cam lộ
                    Chuyển pháp luân vô thượng.
GIẢNG:

Đây nói rằng khi Đại Thông Trí Thắng đó soi sáng khắp tất cả các thế giới, thì các cung trời Phạm Thiên ở mười phương, các vị cùng chung cung điện đến Phật, rồi đâng cúng dường cung điện, sau thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nghĩa là, ánh sáng đó khi giác ngộ rồi thì nó rọi sáng vượt khắp cả không gian không giới hạn. Mình bây giờ đây cũng có ánh sáng đó, nhưng ánh sáng đó chỉ lẩn quẩn trong thân mấy chục ký này thôi, không sáng ra tới bên ngoài, còn kia giác ngộ rồi thì đâu đâu cũng sáng. Bởi vậy khi giác ngộ rồi thì thấy chỗ nào cũng thanh tịnh, cũng sáng sủa và ở đâu cũng là ở trong ánh sáng giác ngộ đó hết. Vậy cho nên chỗ nào cũng là chỗ người trở về ánh sáng đó. Ở đây nhắc lại các Trời Phạm Thiên cũng đều cảm ánh sáng đó, nên cùng chung đi đến Phật, rồi dâng cung điện cúng dường, cung điện là chỉ cho chỗ nương tựa, buông được chỗ nương tựa đó, thì đến với Phật. Các vị thỉnh Phật chuyển pháp luân, nhưng Phật chỉ nhận thỉnh mà im lặng ngồi thôi, chưa nói tức phải đợi thời cơ chín mùi, chưa thể nói liền được.

CHÁNH VĂN:

                    Thế Tôn huệ vô thượng
                    Nhân chúng nhơn kia thỉnh
                    Vì nói các món pháp
                    Bốn đế, mười hai duyên
                    Vô minh đến lão tử
                    Đều từ sanh duyên hữu
                    Những quá hoạn như thế
                    Các ông phải nên biết.   
GIẢNG:

Đây nói Đức Phật nhận lời thỉnh của các vị đó, nên Ngài nói pháp Tứ Đế, mười hai nhân duyên, để trừ những quá hoạn trước, khiến cho người thoát khỏi sanh tử, việc tự lợi đã xong.

CHÁNH VĂN:

                    Tuyên nói pháp đó rồi
                    Sáu trăm muôn ức cai
                    Đặng hết các ngằn khổ
                    Đều thành A La Hán
                    Thời nói pháp thứ hai
                    Nghìn muôn hằng sa chúng
                    Ở các pháp chẳng thọ
                    Cũng đặng A La Hán
                    Từ sau đây đặng đạo
                    Số đông đến vô lượng
                    Muôn ức kiếp tính kể
                    Không thể đặng ngằn mé.
GIẢNG:


Đức Phật nói pháp hội thứ nhất, hội thứ hai, thứ ba, những vị nghe pháp chứng A La Hán nhiều vô số, nghĩa là trong đó không phải một hội mà nhiều hội kế tiếp kế tiếp, chúng được độ chứng A La Hán, tức là phần tự lợi đã xong, cho nên căn cơ cũng đã đến lúc chín mùi, bắt đầu để nói Pháp Hoa.

CHÁNH VĂN:

                    Bấy giờ mười sáu vị
                    Xuất gia làm Sa di
                    Đều đồng thỉnh Phật kia
                    Diễn nói pháp đại thừa
                    Chúng con cùng quyến thuộc
                    Đều sẽ thành Phật đạo
                    Nguyện đặng như Thế Tôn
                    Huệ nhãn sạch thứ nhất.
                    Phật biết lòng đồng tử
                    Chỗ làm của đời trước
                    Dùng vô lượng nhơn duyên
                    Cùng các món thí dụ
                    Nói sáu ba la mật
                    Và các việc thần thông
                    Phân biệt pháp chơn thiệt
                    Đạo của Bồ Tát làm
                    Nói kinh Pháp Hoa này
                    Kệ nhiều như hằng sa.  
GIẢNG:

Bây giờ đây thì mười sáu vị Sa Di này thỉnh Phật chuyển pháp luân nói đại thừa tức nói Pháp Hoa này, chỉ thẳng vào chỗ chân thật đó. Phật biết lòng các vị đồng tử đó, những chỗ làm của đời trước, nên dùng những món nhân duyên, thí dụ nói về đại thừa, tức nói kinh Pháp Hoa này, Phật biết rõ lòng đồng tử tức là sao? Bởi vì mười sáu vị đồng tử đó, là chỉ cho thức tâm đã chuyển thành trí, là đồng với thể giác, với cha là Phật Đại Thông Trí Thắng. Vì đồng một thể giác đó, nên Phật thầm biết lòng của đồng tử rồi Phật dùng những phương tiện nói kinh Pháp Hoa, để đưa người vào Tri Kiến Phật, để chỉ cho ai ai cũng có phần tri kiến Phật hết.

CHÁNH VĂN:

                    Phật kia nói kinh rồi
                    Vào tịnh thất nhập định
                    Tám muôn bốn nghìn kiếp
                    Một lòng ngồi một chỗ
                    Các vị Sa Di đó
                    Biết Phật chưa xuất thiền
                    Vì vô lượng chúng nói
                    Huệ vô thượng của Phật
                    Mỗi vị ngồi pháp tòa
                    Nói kinh đại thừa này
                    Sau khi Phật yên lặng
                    Tuyên bày giúp giáo hóa.
GIẢNG:

Nghĩa là Phật Đại Thông Trí Thắng nói Pháp Hoa một thời gian rồi vào tịnh thất nhập định, khi Phật nhập định rồi thì các vị đồng tử Sa Di đó thay Phật nói Pháp Hoa, Phật trong im lặng thầm giúp giáo hóa.

Phật nói kinh rồi vào nhập định là khiến cho người nghe phải đạt ý quên lời mà thực hành, tức là để cho mình thực sống Pháp Hoa. Và khi Phật nhập định, các vị Sa Di đó thay Phật lên Pháp tòa nói Pháp, các Ngài nói Pháp Hoa nhưng được sự im lặng trợ giúp của Phật. Vậy Phật im lặng trợ giúp các vị nói pháp. Bây giờ nói pháp đây có sự trợ giúp của Phật Đại Thông Trí Thắng không? Nếu có thì tại sao chưa thấy? Bởi vì khi im là nói, mà nói tức là im, nghĩa là trong cái nói đó đã có thầm cái im lặng trong đó, và ngược lại khi im lặng thì đã có cái nói trong đó rồi. Tức mình phải thấy ý vượt ngoài ngôn ngữ, thì thấy được Phật Đại Thông Trí Thắng luôn luôn thầm trợ giúp người đang nói pháp, người nghe cũng phải khéo nghe như vậy, tức là khéo nghe được Pháp Hoa.

CHÁNH VĂN:

                    Mỗi vị Sa Di thảy
                    Số chúng sanh mình độ
                    Có sáu trăm muôn ức
                    Hằng hà sa các chúng
                    Sau khi Phật diệt độ
                    Các người nghe pháp đó
                    Ở các nơi cõi Phật
                    Thường cùng thầy sanh chung.
GIẢNG:


Mỗi vị Sa Di này thường độ chúng sanh, và thường sanh chung với thầy, tức là khi nói Pháp Hoa các thức này chuyển, thì các tâm niệm phiền não vi tế đó cũng chuyển theo, cho nên thường gần gũi nhau, cùng nói lên nhân duyên thầy trò thường gần gũi, không phải là cái mới đây. Mình bây giờ còn ngồi đây nghe Pháp Hoa, biết đâu mình có duyên với Phật Thích Ca trong hội Pháp Hoa rồi.

CHÁNH VĂN:

                    Mười sáu Sa Di đó
                    Đầy đủ tu Phật đạo
                    Nay hiện ở mười phương
                    Đều đặng thành chánh giác
                    Người nghe pháp thuở đó
                    Đều ở chỗ các Phật
                    Có người trụ Thanh Văn
                    Lần dạy cho Phật đạo
                    Ta ở số mười sáu
                    Từng vì các ngươi nói
                    Dẫn dắt đến huệ Phật
                    Do bổn nhơn duyên đó
                    Nay nói kinh Pháp Hoa
                    Khiến người vào Phật đạo
                    Dè dặt chớ khinh sợ.   
GIẢNG:

Đây nói mười sáu vị Sa Di thành Phật ở các phương, vị thứ mười sáu là Phật Thích Ca, Phật Thích Ca là vị ở phương này, vậy thì Ngài đã từng dẫn dắt những chúng sanh đó vào trí huệ của Phật. Như những người ngồi đây, đã được Phật giáo hóa, tức là đã có duyên với Phật, nên phải nhớ lại gốc xưa đó, chớ có sanh nghi ngờ.

CHÁNH VĂN:

                    Thí như đường hiểm dữ
                    Xa vắng nhiều thú độc
                    Và lại không cỏ nước
                    Chốn mọi người ghê sợ
                    Vô số nghìn muôn chúng
                    Muốn qua đường hiểm này
                    Đường đó rất xa vời
                    Trải năm trăm do tuần
                    Bấy giờ một đạo sư
                    Nhớ dai có trí huệ
                    Sáng suốt lòng quyết định
                    Đường hiểm cứu các nạn
                    Mọi người đều mệt mỏi
                    Mà bạch đạo sư rằng:
                    “Chúng con nay mỏi mệt
                    Nơi đây muốn lui về".
GIẢNG:


Đây là kệ tụng Hóa Thành Dụ, ở nơi đường dữ xa vắng, chốn ghê sợ, chúng đông muốn đi qua, có bậc đạo sư dẫn đi tìm báu, nhưng nửa đường mỏi mệt muốn lui về.

CHÁNH VĂN:

                    Đạo sư nghĩ thế này
                    Bọn này rất đáng thương
                    Làm sao muốn lui về
                    Cam mất trâu bửu lớn?
                    Liền lại nghĩ phương tiện
                    Nên bày sức thần thông
                    Hóa làm thành quách lớn
                    Các nhà cửa trang nghiêm
                    Bốn bề có vườn rừng
                    Sông ngòi và ao tắm
                    Cửa lớn lầu gác cao
                    Trai gái đều đông vầy
                    Hóa ra thành đó rồi
                    An ủi chúng "Chớ sợ
                    Các người vào thành này
                    Đều được vừa chỗ muốn".
GIẢNG:

Đây là tụng vị đạo sư dẫn đường đó, thấy chúng nhân đòi về nên thương, vì thế giữa đường hóa cái thành lớn trang nghiêm để cho chúng vào đó mà tạm an nghỉ.

CHÁNH VĂN:

                    Mọi người đã vào thành
                    Lòng đều rất vui mừng
                    Đều sanh tưởng an ổn
                    Tự nói đã được độ
                    Đạo sư biết nghỉ xong
                    Nhóm chúng mà bảo rằng:
                    Các ngươi nên đi nữa
                    Đây là hóa thành thôi
                    Thấy các ngươi mỏi mệt
                    Giữa đường muốn lui về
                    Nên dùng sức phương tiện
                    Ta hóa làm thành này
                    Các ngươi gắng tinh tấn
                    Nên đồng đến chỗ báu.
` GIẢNG:


Tức là khi thấy mọi người nghỉ mệt xong, vị Đạo sư đó mới diệt hóa thành bảo họ phải tiến tới nữa, bảo sở ở gần đây thôi, mình chớ có lo sợ, nghi ngờ gì nữa, phải tiến tới chút nữa. Bây giờ mới hợp pháp trở lại.

CHÁNH VĂN:

                    Ta cũng lại như vậy
                    Đạo Sư của tất cả
                    Thấy những người cầu đạo
                    Giữa đường mà lười bỏ
                    Không thể vượt đường dữ
                    Sanh tử đầy phiền não
                    Nên dùng sức phương tiện
                    Vì nghỉ nói Niết Bàn
                    Rằng các ngươi khổ diệt
                    Chỗ làm đều đã xong
                    Đã biết đến Niết Bàn
                    Đều chứng A La Hán
                    Giờ mới nhóm đại chúng
                    Vì nói pháp chơn thật
                    Sức phương tiện các Phật
                    Phân biệt nói ba thừa
                    Chỉ có một Phật thừa
                    Vì nghỉ nên nói hai
                    Vì các ngươi nói thiệt
                    Các ngươi chưa phải diệt
                    Vì nhứt thiết trí Phật
                    Nên phát tinh tấn mạnh
                    Ngươi chứng nhứt thiết trí
                    Mười lực các Phật pháp
                    Đủ băm hai tướng tốt
                    Mới là chơn thật diệt
                    Các Phật là đạo sư
                    Vì nghỉ nói Niết Bàn
                    Đã biết ngơi nghỉ rồi
                    Dẫn vào nơi huệ Phật.
GIẢNG:

Đây là bài tụng hợp pháp trở lại, đức Phật nói Ngài cũng như vị đạo sư vì dẫn dắt người cho nên phải dùng nhiều phương tiện, nói có Niết Bàn, dứt sạch sanh tử nhưng mục đích là để đưa người đến chỗ giác ngộ thôi. Nghĩa là mình phải vượt qua những thứ lớp sai biệt, không có chỗ nào mà dừng mà nghỉ hết, còn có chỗ dừng đó là chưa thật, mình làm sao để sống cho trọn vẹn trở về tự tánh chân thật thì đó là cái gốc. Nói tóm lại ở đây ai ai cũng đều có vị Phật Đại Thông Trí Thắng ngay nơi mình, chớ không phải ở đâu xa, nhưng mình đã bỏ quên, đã mê không thấy, có Phật Đại Thông sẵn nơi mình mà mình không Đại Thông, vì không Đại Thông nên không Trí Thắng luôn. Chính vì vậy mà Phật đó nhập diệt với mình từ lâu xa rồi, không biết bao nhiêu kiếp, bây giờ mình không nhớ nhập diệt lúc nào nữa. Do đó mà đây nói Phật Đại Thông Trí Thắng nhập diệt cách đây vô số kiếp không tính kể được, thời gian không nói hết. Nhưng bây giờ đây nếu mình khéo tỏ ngộ lại thì sẽ thấy Phật Đại Thông Trí Thắng ra đời. Rồi mười sáu vị vương tử cùng thần dân đó cũng theo về đây đủ hết. Như vậy ánh sáng giác ngộ này nó soi hết trên dưới không có giới hạn, cả những cõi trời Phạm Thiên luôn. Nếu mình thấy được ánh sáng Đại Thông này, mình ngồi đây thấy nhau hết, nên khi Đại Thông Trí Thắng thành Phật, ánh sáng đó rọi khắp thì chúng sanh trong mười phương thấy được nhau, mới lấy làm lạ tại sao trong đây bỗng sanh chúng sanh? Còn mình bây giờ ngồi kế bên mà không thấy nhau, tại sao? Là bởi vì trong đầu mỗi người đang có thế giới riêng, mà sống với thế giới riêng do đó ngồi sát bên nhau mà không thấy nhau, chỗ này là chỗ đáng thương cách biệt của mình.

Thí dụ như hai người có thành kiến với nhau, đi đụng mặt nhau cũng không thấy nhau, mỗi người cúi mặt đi luôn, đó là chỗ cách biệt, chỗ cách biệt đó do đâu mà có? Do cái ta này mà thành cách biệt chớ không gì hết. Nếu mình quên cái ta này thì có gì cách biệt, cách biệt là vì mình thấy ta khác với người, cho nên người kia đụng với ta thì nổi lên chuyện. Mình quên không có cái ta này, chỉ biết có thể giác thôi, thì có gì đâu mà khác biệt, nên thấy chỗ đó rồi đều thông cảm với nhau hết, vì ai ai cũng có cái chung đó. Chỗ này dù cho người Việt Nam, người Miên, người Lào, người Mỹ, người Anh, hay người nào đi nữa, cũng đều chung chỗ này, ngay cả những người tôn giáo khác cũng đều có chỗ này, thấy vậy thì mới có chỗ thông cảm với nhau. Còn không thấy chỗ này dễ có thành kiến nhau rồi tranh đấu gây đau khổ cho nhau, rồi tạo thành nghiệp, thì đã xa càng xa nữa.

Bây giờ đây mình rõ được chỗ này, sống trở về với cái chân thật đó, cái chân thật này là cái đã có từ lâu rồi. Nếu tin được thì sao? Tin được cái đó thì được thọ ký thôi. Cho nên phẩm sau là thọ ký tiếp.

Tin mới

Các tin khác

[ Quay lại ]